
TƯ VẤN VÀ TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO CON TRẺ
(LIỆU PHÁP THỰC CHIẾN 9 GỐC KHÔNG DÙNG THUỐC)
Đã có rất nhiều đứa trẻ lẽ ra phải được phát hiện ra các khuynh hướng, nguy cơ tiềm ẩn của các bệnh tâm lý nhưng không được phát hiện ra kịp thời. Phải đến khi phát bệnh và được chẩn đoán kèm đơn thuốc to đùng thì cha mẹ mới chạy đôn chạy đáo giúp con. Thậm chí nhiều đứa trẻ đã không còn cơ hội để chữa. Nên cần hiểu đúng về Tư vấn tâm lý và Trị liệu tâm lý cho con trẻ cần phải từ Gốc vấn đề và Gốc nguyên nhân từ đó mới có thể giúp con chặt đi hoàn toàn các tác nhân khiến con khổ sở.
P1. TRỊ LIỆU BỆNH TÂM LÝ VÀ RỐI LOẠN TÂM THẦN
Cốt lõi và quan trọng nhất trong trị liệu tâm lý cho những đứa trẻ là phải giúp các con ngắt bỏ hoàn toàn các nguyên nhân gây ra cho chúng.
Nó không phải là chỉ những lời tâm sự vuốt ve để ru ngủ cảm xúc từ chuyên gia tâm lý.
Nó càng không phải chỉ Bác sỹ tâm lý cho uống thuốc để tạm thời lắng xuống những mất kiểm soát.
Nó phải là sự kết hợp giữa liệu pháp lâm sàng và liệu pháp tâm lý để giúp con có khả năng tự chữa lành cho mình bằng Tư duy nhận thức từ đó cân bằng được Cảm xúc, Hành vi theo đúng quỹ đạo để bản thân an toàn, vui vẻ, hạnh phúc và nhiều năng lượng sống tích cực.
Với các vấn đề con cần phải Trị liệu như:
Trị liệu Rối loạn lo âu
Trị liệu Rối loạn ám ảnh
Trị liệu Trầm Cảm
Trị liệu Tâm thần phân liệt
Trị liệu mất ngủ
Trị liệu Rối loạn cảm xúc
Trị liệu Rối loạn hành vi
Trị liệu Rối loạn chống đối
Trị liệu Rối loạn gây rối
Trị liệu khác theo cán vấn đề tâm lý khác mà con trẻ đã có chẩn đoán từ bác sĩ.
Phải tìm ra được tất cả các nguyên nhân và phải cho con phương pháp để con dùng Tư duy nhận thức, dùng Tư duy lý trí, dùng Tư duy ý chí….. đúng và mạnh mẽ để chính con biết điều khiển loại bỏ các tác nhân gây ra. Có những vấn đề của con từ hữu hình con có thể cảm nhận được nhưng có nhiều vấn đề vô hình mà con không thể cảm nhận được mới là những tác nhân lớn gây ra hiện trạng tâm lý của con.
Vì vậy, ngoài các vấn đề, các tác nhân đã hiệu hữu thì cốt lõi nhất để trị liệu tâm lý dứt điểm là phải giúp con có phương pháp cảm nhận, đón đầu được để tìm ra đến tận cùng các lo âu, các ám ảnh, các nỗi sợ, những sự thù ghét, những suy diễn tiêu cực….vô hình đó mới co thể giúp con đúng, giúp con đủ.
Không thể cho rằng chỉ vài giờ tâm sự là con đã được trị liệu tâm lý đúng. Bởi vì chúng vẫn chỉ là những đứa trẻ chưa thực sự có kinh nghiệm để tự mình biết thay đổi. chỉ qua lời nói. Càng không bao giờ được thấy con tạm thời không còn nghĩ quẩn, tạm thời con không còn có những ý đồ gây nguy hại mà tưởng con đã trị liệu thành công nếu không giúp con trị liệu từ gốc của ung nhọt tinh thần. Đời sống tinh thần quyết định 95% tương lai và cả cuộc đời đứa trẻ nên cần lắm sự trị liệu đúng để con không bị tái lại trong các ngưỡng tuổi tiếp theo.
Cốt lõi cho con trẻ là loại bỏ hoàn toàn để các vấn đề trong con không có cơ hội nảy mầm lại trong các độ tuổi tiếp theo của tương lai và cuộc đời. Đó mới là những gì con cần và cha mẹ cần giúp con
Quy trình trị liệu và phương pháp Trị liệu
Đừng quá phải tìm kiếm phương pháp màu mè cao siêu. Hãy hiểu con người cái gốc là từ LỐI NHẬN THỨC MÀ RA VẤN ĐỀ. Vì vậy, không vòng vo, không lan man để mất đi cơ hội phục hồi nhanh của con trẻ. Phải đi vào thực tế từng cái Gốc, từng cái nhánh gốc của vấn đề để chặt chúng đi và gieo cho con các mầm Gốc mới.
B1. Tiếp cận cha mẹ và con
B2. Chẩn đoán Gốc các vấn đề
B3. Truy tìm nguyên nhân Gốc
B4. Trị liệu bằng liệu pháp TÂM LÝ THỰC CHIẾN 9 GỐC (Liệu pháp dùng Ý chí và Lý trí của Tư duy nhận thức để tự chữa lành Khi cho con Phương pháp Làm chủ khả năng Tư duy Cảm nhận, Nhận thức được vấn đề của bản thân Cho con Phương pháp Làm chủ Khả năng Tư duy Truy vết được các Nguyên nhân gây ra từng Ngóc ngách vấn đề -> Cho con Phương pháp Tự làm chủ Khả năng Trị liệu cho chính mình Cho con Phương pháp Tự Làm chủ Khả năng tự đón đầu và loại bỏ các tổn thương tiếp theo trong từng độ tuổi.
P/s: Trong quá trình Trị liệu cha mẹ được hướng dẫn phương pháp Trị liệu để đồng hành cùng con nhằm không chỉ giúp con trong các vấn đề hiện tại mà có khả năng giúp con khi con gặp bất kỳ vấn đề gì khác rong hiện tại hoặc trong các độ tuổi tiếp theo

P2. TƯ VẤN TÂM LÝ ĐỂ ĐÓN ĐẦU NGĂN CHẶN BỆNH TÂM LÝ
Thêm một sai lầm lớn nhất trong nhận thức về Tư vấn tâm lý đó là coi nó như một cái gì đó rất có vấn đề đặc biệt kiểu như một loại bệnh tật bị kỳ thị vậy. Chính vì thế nên chúng ta thường tạo ra sự nuốt các áp lực, nuốt các vấn đề tồn tại của bản thân vào tận sau bên trong từ đó tạo ra những cái ung nhọt phát tác trong nội tâm mà chẳng thể nhận ra. Cho đến khi cái ung nhọt đó nó vỡ ra, nó bị nhiễm trùng và đau đớn mới dám đi Tư vấn tâm lý hoặc thậm chí nó đã phải sang giai đoạn phải Trị liệu tâm lý nặng nề.
Tại sao cần cho con có thói quen tư vấn tháo gỡ tâm lý để chúng không phải tự một mình chống đỡ
Khi con áp lực
Khi con cần chuẩn bị tâm lý cho đầu cấp, cuối cấp, đi du học
Khi con cần chuẩn bị tâm lý cho sự thích ứng mới hoặc các biến cố có thể xảy ra
Khi con mất phương hướng
Khi con mất năng lượng
Khi con mất mục tiêu
Khi con chệch hướng nhận thức
Khi con bất ổn tính cách
Khi con bất ổn cảm xúc, hành vi
Khi con nhút nhát, dễ sợ hãi, dễ ám ảnh
Khi con bất ồn bạn bè, thầy cô
Khi con học chậm, giao tiếp kém
Khi con mất ngủ, khó ngủ
Khi con không có trách nhiệm
Khi con đau tim, đau đầu, đau bụng, ốm yếu không rõ nguyên nhân
Khi con không hợp tác, vướng các tệ nạn
Khi con hư hỗn
Khi con lệch lạc về nhận thức giới tính, tình cảm khác giới
Khi con có bất kỳ vấn đề gì đang trái với quy luật phát triển của đứa trẻ

1. Những đứa trẻ với nhiều áp lực vô hình, với nhiều vết hằn nội tâm tổn thương mà bản thân chúng mơ hồ không thể đọc tên và cha mẹ cũng không thể đọc tên hộ nó.
Từ đó tạo ra từ trường đời sống tinh thần của con ngày càng giảm sút. Con cứ tạo ra cái vòng luẩn quẩn của sự: Chán nản và không có năng lượng mà không biết từ đâu Cứ vô minh trong cam chịu, chấp nhận cũng vô minh Không muốn nghĩ, không muốn vận động hay làm gì Không muốn học tập Không muốn ai chạm đến -> Gồng lên sự không nghe, không muốn, mặc kệ thậm chí phản kháng -> Chấp nhận ì ạch, buông bỏ, bất cần còn cha mẹ thì chấp nhận hoặc loay hoay trong giúp con vô thức nên không có kết quả thậm chí chệch hướng hơn. Đương nhiên đời sống tinh thần quyết định 95% sự phát triển Tư duy Nhận thức/ Tính cách/ Tâm lý/ Cảm xúc/ Học tập và phát triển bản thân và sự tự phát triển tiếp theo với các khuynh hướng bệnh tâm lý nặng hơn.
P/s: Nếu như cho con được sự nhận diện bằng cách đọc tên vấn đề của con và giúp con chữa nó ngay từ khi nó nảy mầm thì chắc chắn đứa trẻ sẽ không bị chệch hướng phát triển và đặc biệt không bị vào các ngưỡng Rối loạn lo âu/ Rối loạn cảm xúc/ Rối loạn hành vi/ Rối loạn chống đối/ Trầm cảm/Tâm thần phân liệt và các ngưỡng rối loạn tâm thần khác.
2. Những đứa trẻ với nhiều áp lực trong tương tác cha mẹ, thầy cô, bạn bè bởi những sự trái chiều với nhận thức, trái chiều trong cư xử nhưng nó không chịu thay đổi hoặc cha mẹ không biết để giúp con thay đổi hoặc cha mẹ chờ nó lớn để nó thay đổi.
Từ đó tạo nên những sự gồng lên để chống đỡ bởi sự lì lợm, chống đối, bất hợp tác gai góc trong sự thấy bất công, trong sự thấy bất mãn . Những sự căng thần kinh gào thét cả trong nội tâm và hành động như chúng là nạn nhân của tất cả mọi người, là nạn nhân của toàn thế giới khiến chúng thật khổ sở. Cứ như vậy chúng phản kháng lại mọi nhận thức khác để nhốt mình trong cái hũ tối chỉ có tổn thương mà không biết mình bị tổn thương, hư hỗn mà không biết mình hư hỗn nên buông bỏ học tập, chẳng lắng nghe ai vì dường như chẳng ai khiến chúng tin tưởng. Chúng cứ tự làm quá lên cộng thêm chúng càng gaai góc thì thầy cô, cha mẹ, bạn bè càng không thể thấu hiểu nên khiến chúng càng gặm nhấm từng ngày nỗi khổ sở trong sự thấy bất công và bất mãn đến mức biển đổi thành đứa trẻ bị kỳ thị, bị cho là có vấn đề.
P/s: Nếu như cho con được nhận diện bởi sự khách quan, bởi sự có chuyên môn đi sâu vào từng ngóc ngách nội tâm của con để cho con nhìn thật vào từng vấn đề và giúp con gỡ nó thì nó sẽ không bao giờ phải khổ sở trong sự tạo ra đứa trẻ hư, tạo ra đứa trẻ có vấn đề để cưỡng lại sự khổ sở mà chỉ mình chúng hiểu chúng.
3. Những đứa trẻ nhút nhát, không có bạn chơi, hay bị trêu trọc bắt nạt, không có kỹ năng tương tác và thể hiện bản thân, không có kỹ năng giao tiếp tốt, thu mình trong sự trầm lặng, thậm chí bị tẩy chay.
Từ đó các con đến trường lớp với sự lạc lõng, đơn độc thậm chí trong sự sợ hãi nhưng chỉ một mình chúng cam chịu, chấp nhận để che giấu các vấn đề gặp phải đi. Có những đứa trẻ tâm sự với bố mẹ nhưng không nhận được giải pháp có thể giúp chúng được, sau tâm sự chúng vẫn bị vậy nên càng che giấu để không cho cha mẹ biết nữa. Bởi chúng nói bố mẹ biết cũng chẳng thể giúp được gì nên thôi con tự chịu. Cứ như vậy có những đứa trẻ phải chịu đựng từ tiểu học rồi lên đến từng cấp học tiếp theo vẫn không được cải thiện từ đó chúng dán nhãn cho mình sự cam chịu cao độ. Đến tuổi nào đó không thể thì đã phát tác ra bệnh tâm lý.
P/s: Nếu chúng ta hiểu rằng trong tuổi học trò hiện đại ngày nay thì khi con gặp bất kỳ vấn đề gì liên quan đến việc con không thể nào tự tin để kết nối các mỗi quan hệ, con không thể duy trì được bạn bè, con không thể hiện được bản thân dù con khao khát hay con đã bị mài mòn mà cam chịu trong bất cần, hay sự nếm trải lạc lõng cô độc trong lớp học, hoặc đến lớp với sự sợ hãi khi bị trêu trọc và tẩy chay…. nó sẽ khiến con khổ sở thậm chí đau đớn như thế nào. Và đặc biệt trong tuổi này áp lực lớn rất của các con chính là ở những vấn đề này nên nếu giúp con tháo gỡ nó chính là giúp con có tiền đề để được phát triển học tập, được phát triển bản thân đúng nhất.

4. Những đứa trẻ có khuynh hướng về các vấn đề phát triển không biết sàng lọc học hỏi nên luôn học xấu nhanh mà vướng vào tệ nạn học đường như: Cúp học, đánh nhau, đua xe, hút thuốc lá, dùng chất gây nghiện, bạo lực học đường, a dua bạn xấu và học xấu, chơi cờ bạc, chơi tài xỉu…
Cha mẹ khi phát hiện ra những lần đầu tiên đương nhiên sẽ là sự chửi mắng hoặc sự bình tĩnh trong tức giận, hoang mang để khuyên nhủ con. Đứa trẻ sẽ tỏ ra rất hiểu chuyện, hối lỗi hoặc có thể vẫn không biết sai mà gầm gừ chống đỡ tạm thời. Nhưng vấn đề là có rất ít đứa trẻ nhận ra thực sự hoặc có thể nhận ra nhưng không có kỹ năng, không có ý chí để chống lại sự lôi kéo và lại tiếp diễn hết lần này đến lần khác. Phải đến khi các con buông bỏ hoàn toàn học tập, phải đến khi con sa lầy thì cha mẹ mới thực sự thấy hết cách mà đưa con đi tư vấn tháo gỡ.
P/s: Nếu như ngay từ khi phát hiện con có vấn đề mà cha mẹ cho con đi tư vấn để tìm các nguyên nhân, giúp con từ tư duy nhận thức, kỹ năng và lý trí, ý chí từ chối và cưỡng lại thì đã có thể giúp con không sa lầy liên miên hết ngày này sang ngày khác.
5. Những đứa trẻ lười biếng không muốn học hoặc học kém nên sợ học từ đó tạo ra áp lực khi luôn bị cha mẹ thúc ép hoặc bản thân tự kỳ vọng học tập cao quá với khả năng hoặc luôn kỳ vọng cao của bản thân đến mức không để bản thân bị thất bại trong sự căng thẳng thậm chí dằn vặt chính mình.
Dù trong bất kỳ trạng thái nào thì con trẻ luôn có những sự gồng gánh khó chịu, tức giận hoặc hoang mang, lo lắng, sợ hãi từ đó trở nên cáu gắt, dễ mất kiểm soát cảm xúc, nhận thức thái quá hoặc sai lệch vấn đề tạo ra sự khổ sở tinh thần. Khi không được gỡ bỏ nó sẽ ngày càng nặng nề hơn thậm chí gây chệch hướng sự phát triển của bản thân trong các tâm lý bất lực cam chịu hoặc bất mãn kéo mình xuống
P/s: Nếu như cho con một lần được khám phá thực sự năng lực học, năng lực ý thức học và mục tiêu đúng, con sẽ học cách để thay đổi bản thân có ý thức và ý chí học trong sự tích cực nhất thì con sẽ không bị những áp lực để kéo học tập đi xuống thậm chí kéo cả sự tự phát triển tích cực đi xuống.
6. Những đứa trẻ có các khuynh hướng lệch lạc giới tính.
Có những đứa trẻ ngay từ khi còn nhỏ đã đi ngược với giới tính gồm cả cách mặc, cách chơi. Nhiều cha mẹ coi nó là bình thường nhưng không biết nó sẽ là khởi đầu cho những thói quen và từ thói quen thành bản tính của con. Ngoài ra vào các độ tuổi cấp 2, cấp 3 các con bắt đầu tiếp cận nhiều các thông tin trái chiều về đồng tính nên cũng dễ dàng bị ám thị từ đó gây ra sự lệch lạc này. Có rất nhiều con trẻ thậm chí vì quá nhút nhát và đã trải qua bị bắt nạt nhiều hoặc bị tổn thương nội tâm trong yếu ớt cam chịu nên chỉ cần có một bạn nữ Tomboy mạnh mẽ sẽ cuốn hút con cũng rất mạnh mẽ. Hoặc có đứa trẻ chỉ vì muốn bảo vêj một bạn cùng giới cũng có thể tạo ra sự mạnh mẽ khác giới để bảo vệ bạn. Có rất nhiều các ý niệm và ý thức vô hình khiến các con bị lây lan cảm xúc, bị lây lan nhận thức sai lệch mà trở nên sai lệch.
P/s: Nếu ngay khi phát hiện sự trái dấu với quy luật thông thường từ trong nhận thức hay hành động của con trẻ mà giúp con nhận thức đúng đắn sẽ giúp con thay đổi được thay bằng bây giờ nhiều cha mẹ hiện đai bất lực thậm chí cũng hiểu sai cho là chuyện bình thường mà không phát hiện ra giới tính thực hay giả của con. Còn rất nhiều các vấn đề cần cho con hiểu, cần giúp con kỹ năng.

Tại sao cha mẹ Việt hiếm tư vấn đón đầu cho con về tâm lý ?
Vì nhiều cha mẹ nghĩ rằng vấn đề không quá nghiêm trọng cho đến khi phải có cái gì đó khiến con quá lên mà mình không thể chấp nhận được hoặc quá lo lắng cho con mới có thể tìm nơi tư vấn cho con. Thậm chí trong nhiều năm tư vấn có khá nhiều các con khi đến với Phạm Hiền đã được cảnh bảo về các các nguy cơ, các khuynh hướng bệnh tâm lý nhưng cha mẹ vẫn chủ quan thậm chí rất hời hợt theo kiểu nghe để biết. Phải cho đến khi con phát tác bệnhtâm lý thực sự và có chát chẩn đoán, chát đơn thuốc của bệnh viện thì các cha mẹ mới lo lắng để giúp con thực sự. Thậm chí nhiều con phát bệnh rồi mà không ảnh hưởng đến học tập thì cha mẹ vẫn chủ quan. Bởi cha mẹ hiện đại ngày nay thường đo lường và nhận diện con cái thông qua điểm số và kết quả học tập là chính.
Quy trình tư vấn tâm lý cho con
Đừng chần chừ, đừng trì hoãn trong sự chủ quan chờ con thay đổi, chờ con lớn con thay đổi. Bởi mỗi vấn đề luôn sẽ thành thói quen và từ thói quen hình thành nên bản tính của con. Hãy cho con
B1. Tiếp cận cha mẹ và con
B2. Tư vấn các vấn để bất ổn hoặc là rào cản gây ra các khuynh hướng phát triển bất ổn trong độ tuổi và tương lai
B3. Truy tìm nguyên nhân Gốc của các vấn đề và các rào cản con mắc phải
B4. Truy tìm các rào cản tương lai có thể xảy ra để giúp cha mẹ và con đón đầu ngăn chặn trước
B5. Tư vấn phương pháp THỰC CHIẾN 9 GỐC cho con và tạo động lực cho con có nội lực ý chí mong muốn , quyết tâm thay đổi bản thân
B6. Tư vấn phương pháp cho cha mẹ để đồng hành cùng con trong từng vấn đề cần con thay đổi và phát triển
HAY TỈNH TẢO ĐỂ GIÚP CON ĐÚNG, GIÚP CON KỊP THỜI. ĐÓ LÀ HẠNH PHÚC CHO CON ĐÚNG NHẤT! ĐỪNG ĐỂ NHỮNG NUỐI TIẾC HAY NHỮNG HỐI HẬN MUỘN MÀNG!
ĐĂNG KÝ TƯ VẤN
(XEM THÊM)
I. HIỂU ĐÚNG VẤN ĐỀ TÂM LÝ CỦA CON
📌 P1. Tại sao cha mẹ ngày nay đầu tư cho con học rất nhều thứ để thành tài. Nhưng tài chưa thấy đâu mà trẻ bây giờ quá nhiều vấn đề thậm chí khiếm khuyết
1. Đầu tư sai hướng và sai trọng điểm: Cha mẹ ngày nay chỉ chú trọng trọng điểm ở HỌC thay vì PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Cha mẹ đầu tư theo thành tích, kỳ vọng cá nhân: Muốn con giỏi, thành tài, nổi bật, có thành tích cao, có lợi thế cạnh tranh nên nhồi nhét rất nhiều môn học nhưng bỏ qua nhu cầu phát triển Tính cách/ Tâm lý/Cảm xúc/ Ý thức và ý chí tự thân phát triển/ Nhân cách của con.
Thiếu sự quan sát và thấu hiểu con: Nhiều cha mẹ không thật sự biết con mình là ai, đang có ý, đang yếu gì, thực sự đang cần gì, đang thích gì, đang áp lực hay tổn thương ra sao. Họ chạy theo xu hướng hoặc áp đặt kỳ vọng mà không dựa trên màu sắc về Năng lực trí tuệ và tốc độ phát triển riêng biệt của trẻ, năng lực về Tính cách/ Tâm lý và đời sống tinh thần của con trẻ.
2. Môi trường học tập quá tải, áp lực, thiếu tính phát triển của trẻ trong tuổi thơ của chúng
Trẻ ngày nay mất tuổi thơ vì lịch học dày đặc, không có thời gian chơi tự do, không được tiếp xúc nhiều với thiên nhiên, bạn bè, bộc lộ cảm xúc thật và có khả năng tự phát triển tư duy xã hội.
Con học nhiều nhưng thiếu không gian sáng tạo, nhận thức sai lầm, tự điều chỉnh, dẫn đến trí óc bị bão hòa, dễ căng thẳng, mệt mỏi và mài mòn thậm chí đóng cảm xúc và đời sống tinh thần.
Kỹ năng sống và trí tuệ cảm xúc không được bồi dưỡng, trong khi đây là nền móng để con trẻ tự điều hướng cảm xúc, quan hệ và tự xử lý tình huống, giải quyết vấn đề.
3. Gia đình thiếu kết nối cảm xúc và sự đồng hành đúng cách
Dù đầu tư cho con nhiều về tiền bạc, cha mẹ lại thiếu đầu tư về sự hiện diện thực sự: không dành thời gian chất lượng, không lắng nghe, không tạo sự an toàn cảm xúc cho con thậm chí tạo ra đứa trẻ cá nhân chỉ một mình từ đó ngăn chặn đứa trẻ không có các kích thích tự phát triển đúng quy luật gia đình và cuộc sống.
Tình yêu có điều kiện: Chỉ tình cảm với con khi con ngoan, thành tích tốt và đạt được kỳ vọng của cha mẹ mong muốn nhưng luôn mắng mỏ, lạnh lùng khi con thất bại hoặc sai từ đó khiến trẻ dễ bị rối loạn nhận thức giá trị bản thân mà chệch hướng.
Giao tiếp cư xử tự do khiến con trẻ mất đi các nhận thức về lễ nghi, về nguyên tắc, về kỹ năng cư xử hoặc theo kiểu mệnh lệnh lý trí, thiếu đi sự đồng cảm khiến trẻ sống trong lo âu, cô đơn, hoặc chống đối ngầm.
4. Do áp lực hoặc lộn xộn từ sự thay đổi xã hội nhanh chóng
Thế giới công nghệ, mạng xã hội, áp lực so sánh, bạo lực mạng khiến trẻ mất phương hướng, dễ tự ti hoặc hành vi bất ổn.
Nhiều trẻ mắc chứng lo âu xã hội, rối loạn tập trung, trầm cảm nhẹ, mất định hướng giá trị sống, nhưng cha mẹ không nhận ra kịp.
Con trẻ rẻ có rối loạn phát triển (tự kỷ, tăng động, rối loạn cảm xúc) đang ngày càng được nhận diện nhiều hơn không phải vì mới xuất hiện, mà do xã hội bắt đầu chú ý và phát hiện đúng hơn.
5. Thành tài không bằng thành người – thiếu giá trị cốt lõi
Cha mẹ đầu tư cho con thành “người có tài”, nhưng không chú ý đến việc con có trở thành người có trách nhiệm, kiên cường, biết yêu thương, kiên trì, nhẫn nại, vượt khó, biết sống tử tế với chính bản thân con, với gia đình và xã hội hay không.
Con trẻ Trẻ được tung hô kỹ thuật số nhưng thất bại trong giao tiếp thực tế, kỹ năng làm người, kỹ năng thích ứng nên dễ mong manh và gãy đổ khi gặp khủng hoảng, stress, hoặc chỉ trích.
💡 Vậy nên cha mẹ cần thấu hiểu để dạy con đúng
Cốt lõi trong nuôi dạy con : Phải lấy nền tảng tâm lý, nhân cách, cảm xúc làm gốc . Vì Tài năng là quả ngọt, nhưng gốc rễ phải là tâm hồn vững chắc.
Đầu tư chất lượng chứ không phải là số lượng: Học ít lại, nhưng học đúng cái con cần để con có thời gian chơi, thở, sống và cảm nhận cuộc đời của chính con
Đồng hành chứ không áp đặt: Hiểu con là ai, yêu con vì con là chính mình chứ không phải vì thành tích con đạt được.
Là người dẫn dắt đúng cho sự phát triển của con: Dẫn dắt bằng giá trị sống, kỹ năng sống và nhân cách chuẩn mực trước khi dạy con cạnh tranh hay chiến thắng.
📌 P2. Các áp lực của con trẻ hiện đại rất cần cha mẹ thấu hiểu
1. Áp lực từ thiếu hụt các năng lực tự phát triển bản thân
Tư duy nhận thức chậm: Loay hoay trong tự nhận thức các vấn đề tương tác học tập và cuộc sống, không biết cảm nhận và học hỏi từ môi trường sống và trong học tập trường lớp, không tự có tư duy đón đầu và xử lý tình huống, giải quyết vấn đề gặp phải.
Không có khả năng tự lập: Các khả năng tự lập trong mọi công việc từ phục vụ bản thân, học tập cho đến các tương tác xã hội yếu kém thậm chí không có dẫn đến sự thụ động hoặc căng thẳng sợ hãi khi bị loay hoay
Nhẫn nại và vượt khó không có: Không thể kiên trì, nhẫn nại được trong các hoạt động công việc đặc biệt học tập từ đó khiến phát triển lộn xộn cả trí não, cảm xúc, hành vi hoặc không chịu được chút khó khăn, chút thất bại nên tổn thương dằn vặt hoặc buông bỏ chống đối
Không có kỹ năng đón đầu và tự giải quyết vấn đề: Bất kỳ vấn đề gì trong tương tác gia đình và xã hội, tương tác trong môi trường học tập hoặc các vấn đề khác trong cuộc sống luôn không biết đón đầu để vận hành cư xử, để xử lý và giải quyết gây căng thẳng, gây sợ hãi.
Không có kỹ năng sống và các kỹ năng mềm tự vận hành bản thân trong môi trường sống: Loay hoay mọi thứ, mất phương hướng trong từ nhận diện và cảm nhận bản thân đến các vấn đề phát sinh trong cuôc sống từ đó tạo sự lộn xộn chồng chất gây ra sự hoang mang chồng chất.
Không có kỹ năng kiểm soát bản thân: Không thể sàng lọc xấu và kiểm soát bản thân với các vấn đề tiêu cực nơi trường lớp và xã hội…Còn rất nhiều các áp lực thiếu hụt khác mà mỗi con trẻ sẽ có các màu sắc riêng.
💡 Vậy nên cha mẹ cần thấu hiểu
Người lớn áp lực các vấn đề từ bản thân, từ quan hệ bạn bè, từ gia đình, từ sự yếu kém phát triển bản thân thì con trẻ cũng vậy nhưng nó sẽ áp lực hơn vì nó chưa đủ trải nghiệm để có được sự chịu đựng hoặc sự có thể vượt qua như bố mẹ
Người lớn có thể có khả năng cảm nhận được thiếu hụt của bản thân, có thể cảm nhận được vấn đề của mình nhưng con trẻ rất khó để chúng có khả năng nhận diện được nên người lớn mông lung mất phương hướng nhưng con trẻ
2. Áp lực học tập và thành tích
Lịch học dày đặc nhưng không đích đến: Học chính khóa, học thêm, kỹ năng, ngoại ngữ, thể thao, nghệ thuật…tràn lan thời gian hết ngày này sang tháng khác mà không có lộ trình mục tiêu cần trong từng thời điểm, tưng giai đoạn đúng với màu sắc và độ tuổi của con.
Bị cha mẹ, ông bà so sánh với bạn bè, anh chị em, “Con nhà người ta” hoặc tự bản thân kỳ vọng so sánh nhuwg không đạt được như ‘Con nhà người ta”
Hay mắc sai lầm hoặc thất bại điểm số, thành tích nên bị cha mẹ la hét, chỉ trích hoặc bản thân sợ thất bại, sợ làm cha mẹ buồn lòng.
💡 Vậy nên cha mẹ cần thấu hiểu
✅ Không phải cứ học nhiều là con giỏi và càng không phải cứ con học giỏi là sẽ thành công hay hạnh phúc. Vì rất nhiều người học bình thường nhưng khi ra đời vẫn thành công hơn người học giỏi
✅ Thành tích từ sự bị gò ép hoặc do lò luyện lặp đi lặp lại không thể thay thế sự tự tin, đam mê và khả năng tự học. Vì đó mới là nền tảng lâu dài cho sự tự phát triển của chính con trên chiến trường cuộc đời con
✅ Áp lực học tập liên tục dễ dẫn đến rối loạn lo âu, mất ngủ, mất động lực học và động lực sống
3. Áp lực từ sự kỳ vọng quá cao của cha mẹ
Áp lực trong che giấu bản thân: Trẻ không dám thể hiện bản thân thật. Chúng uôn cố để làm sao “được lòng” người lớn và cố để che giấu các yếu kém, các áp lực vào bên trong để tự mình cam chịu
Áp lực khi ám thị và dán nhãn bản thân yếu kém: Luôn cảm thấy mình “chưa đủ giỏi” từ đó luôn suy nghĩ quá vấn đề để dằn vặt với mỗi sai lầm dù rất nhỏ.
Áp lực che dấu lỗi và thất bại: Luôn cầu toàn quá và sợ sai từ đó mất tự do trong suy nghĩ gây ra sự giới hạn sự tự phát triển mở rộng kiến thức và trí tuệ, kỹ năng, khả năng toàn diện.
Chống đối làm ngược với kỳ vọng của cha mẹ để kéo bản thân xuống.
💡 Vậy nên Cha mẹ cần thấu hiểu
✅ Trẻ cần được chấp nhận vì chính con là con, không phải vì những gì con làm được.
✅ Kỳ vọng là tốt, nhưng ép buộc kỳ vọng là gánh nặng.
✅ Hãy thay câu “Con phải…” bằng “Con muốn…” để giúp con được chủ động lựa chọn.
4. Áp lực từ công nghệ và mạng xã hội
Sống trong áp lực của sự mong muốn và tự ti: Dễ bị so sánh ngoại hình, hưởn thụ cuộc sống với người khác trên mạng hoặc tự bản thân kỳ vọng mong muốn phải được như những người mà mình hâm mộ hoặc thần tượng. Nhưng không hài lòng sẽ thậy tự ti trong tổn thương mình xấu xí, mình nghèo quá.
Sống trong áp lực sống ảo: Phải làm sao “trông đẹp”, “nổi bật”, “cool”, “giỏi”, “viral” giống những người trên mạng và không đạt được sẽ tự ti thu mình hoặc oán trách tại sao không thể như người ta.
Sống trong sự bắt chước tiêu cực vô thức: Không có khả năng sàng lọc và ứng phó nên có thể bị bắt nạt, cô lập, hoặc cuốn vào nội dung tiêu cực trên mạng xã hội
💡 Vậy nên Cha mẹ cần thấu hiểu
✅ Trẻ lớn lên trong môi trường số, nhưng chưa đủ kỹ năng tư duy nhận thức và quản lý cảm xúc khi sử dụng mạng.
✅ Thay vì cấm đoán cực đoan, hãy đồng hành, dạy con sử dụng mạng xã hội có chọn lọc và có giới hạn.
✅ Quan tâm đến sức khỏe tâm thần số của con vì dù nó là điều rất mới nhưng ngày càng quan trọng.
5. Áp lực giao tiếp và hòa nhập xã hội
Mối quan hệ bạn bè bất ổn: Nhút nhát không thể hiện được bản thân, Khó kết bạn, không có bạn thân, bị chê bai nói xấu, bị trêu trọc, bị tẩy chay, bị bạo lực học đường và luôn căng thẳng trong tâm lý sợ bị cô lập.
Giao tiếp cư xử kém: Giao tiếp qua mạng giỏi, nhưng lúng túng trong giao tiếp cư xử đời thực.
Nhút nhát, tự ti: Sợ bị chê cười, sọ bị phát hiện lỗi hoặc yếu kém nên không dám thể hiện chính kiến từ đó thu mình và khắc khoải trong nội tâm tự ti
💡 Vậy nên Cha mẹ cần thấu hiểu
✅ Kỹ năng xã hội không tự nhiên mà có vì nó cần được dạy, thực hành, và quan sát từ cha mẹ, từ tương tác xã hội.
✅ Tránh chê bai con là “nhút nhát”, “vô duyên”, “vụng về” mà thay vào đó nên khích lệ từng bước nhỏ.
✅ Môi trường học đường cũng có thể là nơi gây áp lực lớn về hòa nhập – nên chú ý lắng nghe chia sẻ từ con.
6. Áp lực khi cho rằng không được là chính mình và là nạn nhân của bị áp đặt
Áp lực từ suy nghĩ mình là nạn nhân bị áp đặt từ cha mẹ: Lúc nào cũng ấm ức, thấy bất công thậm chí bất mãn vì cho rằng bản thân Phải sống theo “mẫu lý tưởng” mà người lớn áp đặt. Không được chọn ngành học, sở thích, bạn bè, phong cách riêng, chẳng được làm cái gì mình muốn. Từ đó luôn trong sự cam chịu chấp nhận buông xuôi hoặc luôn căng thẳng phá ngang để chống đối lại, làm ngược lại.
Áp lực từ sự không nhận thức được, không cảm nhận được các vấn đề của bản thân: Không biết mình sai, không biết mình gây ra hậu quả, không cần biết ảnh hưởng đến ai hay vấn đề gì cứ bản năng theo ý của mình mà chẳng cần biết đúng sai. Từ đó cứ bị phê bình, phải sửa hoặc phải làm khác đi là biện hộ, đổ lỗi hoặc tỏ ra mình là nạn nhân của mọi vấn đề, của mọi người và của toàn thể giới.
Áp lực chỉ đòi sống theo ý mình với nhận thức thái quá hoặc lệch chuẩn: Luôn cho rằng mình đúng, mình chẳng cần phải thay đổi gì cả, mình có vấn đề gì đâu mà cha mẹ lắm chuyện, mình chỉ như thế thôi, mình thấy thế có sao đâu trong sự không đúng về quy luật sống thông thường.., từ đó luôn ấm ức hoặc nổi loạn thấy mọi thứ, mọi người xung quanh như đang gây áp lực, bắt ép mình vậy.
💡 Vậy nên Cha mẹ cần thấu hiểu
✅ Mỗi đứa trẻ là một cá thể duy nhất – khác biệt không có nghĩa là sai. Nhưng phải dạy con biết nhận thức thế nào là duy nhất hay khác biệt đúng với quy luật phát triển của cuộc sống và con người.
✅ Cho con quyền lựa chọn, thử và sai, tự định hình bản thân là điều vô cùng quý giá. Nhưng phải dạy con cách nhận thức đúng của sai phải sửa và cách để sửa nó đúng
✅ Dạy cho con biết nếu con có khả năng tự thân phát triển đúng từ ý thức trách nhiệm chủ động, có mục tiêu và chăm chỉ, tư duy tích cực, sẵn sàng học hỏi để thay đổi và phát triển thì con sẽ được là chính mình, con sẽ hạnh phúc, vững vàng và sáng tạo bởi chính con. Nhưng nếu con vẫn lười biếng, bẩn thỉu, không chịu làm, không chịu học, tiêu cực, ham chơi thì bố mẹ phải thúc ép là chuyện đương nhiên.
💡 Cha mẹ cần làm gì để thấu hiểu và giảm áp lực cho con?
✅ Lắng nghe con mỗi ngày – không chỉ hỏi “Hôm nay học gì?” mà hãy hỏi “Hôm nay con thấy thế nào?”
✅ Cho con quyền tự quyết dần dần, thay vì kiểm soát mọi thứ.
✅ Thừa nhận cảm xúc của con là thật, dù con buồn vì điều nhỏ nhặt.
✅ Làm gương về cách quản lý áp lực, cảm xúc, và giữ cân bằng cuộc sống.
✅ Tìm chuyên gia tâm lý khi cần thiết, đặc biệt nếu con có dấu hiệu trầm cảm, rối loạn lo âu, mất ngủ kéo dài.
📌 P3. Làm sao để cha mẹ phát hiện con bị các vấn đề tâm lý
Việc phát hiện sớm các vấn đề tâm lý ở trẻ chính là yếu tố then chốt giúp con được can thiệp và đồng hành kịp thời. Tuy nhiên, phần lớn cha mẹ thường bỏ qua hoặc nhầm lẫn các dấu hiệu ban đầu với “bướng”, “lười”, “khó dạy”, “dậy thì”… Dưới đây là các cách để cha mẹ phát hiện sớm vấn đề tâm lý ở con, kèm theo dấu hiệu cảnh báo phổ biến:
1. Quan sát hành vi hàng ngày – đừng bỏ qua sự thay đổi nhỏ để phát hiện các cảnh báo sớm
Tính khí thay đổi bất thường: Dễ cáu gắt, nóng giận vô cớ hoặc bỗng trở nên lầm lì, ít nói, chống đối, bất hợp tác
Né tránh tương tác trong gia đình và xã hội: Tự thu mình, không muốn chia sẻ: ít giao tiếp với người thân, tránh bạn bè, không muốn đi học hoặc gặp người lạ, chỉ chìm mình vào game và mạng xã hội
Rối loạn ăn ngủ: mất ngủ, ác mộng, ngủ li bì, ăn quá nhiều hoặc bỏ ăn.
Cảm xúc bất ổn: Hay nổi nóng tức giận, Dằn vặt hoặc chỉ đổ lỗi trong giận dữ mất kiểm soát, Hay khóc, lo âu..
Nhạy cảm quá mức: Dễ xúc động, dễ sợ hãi, sợ thất bại, tự ti về bản thân hoặc đề cao bản thân quá mức
Thành tích học tập giảm sút: Mất tập trung, không muốn học, không hoàn thành bài vở, học hành sa sút bất thường.
Hành vi cực đoan: Tự làm đau bản thân (cào cấu, bứt tóc, cắn tay…), nói về cái chết, nói những điều tiêu cực về cuộc sống.
Không có năng lượng: Than mệt, đau đầu, đau bụng không rõ nguyên nhân: đây là dạng rối loạn lo âu thể hiện qua cơ thể (somatic symptom disorder).
Bất ổn tron các mối quan hệ: Tạo hằn thù hoặc dằn vặt mình sai trong các mối quan hệ bạn bè, cha mẹ…
Ám ảnh và ám thị cao: Dễ bị ám ảnh hoặc ám thị lặp lại liên tục các vấn đề tiêu cực hoặc các hành vi, đồ vật gây ra sự hồi hộp, hoang mang hoặc muốn biến mình thành nhân vật nào đó theo chuyện hoặc phim ảnh
2. Chú ý đến các hành vi lặp đi lặp lại bất thường
Tăng động, bốc đồng, mất kiểm soát → có thể là rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD).
Ám ảnh, cưỡng chế, lo lắng quá mức → có thể là rối loạn lo âu (OCD, GAD).
Khó khăn trong giao tiếp xã hội, tránh nhìn mắt, lặp lại lời nói → nên xem xét khả năng trẻ nằm trong phổ tự kỷ.
Trẻ có dấu hiệu sống khép kín, thiếu động lực, không còn niềm vui → có thể là trầm cảm nhẹ hoặc trầm cảm khởi phát sớm.
💡 Cha mẹ cần làm gì khi con có các dấu hiệu cảnh báo:
✅ Tạo môi trường an toàn để con có thể bộc lộ: Khi con không sợ bị mắng, bị so sánh, bị coi thường, con mới dám nói con đang buồn, mệt, chán nản, mất phương hướng.
✅ Hãy là người bạn tri kỷ của con: Chủ động hiện diện cùng con hàng ngày để tâm sự, nói chuyện và lắng nghe con chân thành làm chỗ dựa hoặc nút xả áp lực cho con.
✅ Đừng đợi đến lúc “con bị hỏng” mới chữa mà hãy cho con đến gặp chuyên gia Tâm lý để được phát hiện khuynh hướng tấm lý có vấn đề, phát hiện nguyên nhân và cách để ngăn chặn
II. GÓC NHÌN CỦA PHỤ HUYNH VỀ LIỆU PHÁP TRỊ LIỆU TÂM LÝ CỦA CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN
📌 P1. Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền có khả năng khác biệt gì khi tư vấn tâm lý và trị liệu tâm lý cho con trẻ
🌟 Được nhiều phụ huynh và cộng đồng biết đến không chỉ vì kinh nghiệm lâu năm mà còn vì phong cách tư vấn – trị liệu có tính “gây sốc tỉnh ngộ” nhưng hiệu quả.
🌟 Khả năng khác biệt của nằm ở sự kết hợp giữa chuyên môn lâm sàng sâu và , phương pháp can thiệp, trị liệu thực tế.
🌟 Khả năng ĐỌC VỊ đứa trẻ và cha mẹ chúng từ gốc rễ của vấn đề chứ không phải không qua biểu hiện bề mặt.
🌟 Khả năng ĐỌC TÊN rõ nét từng vấn đề với ngóc ngách các nguyên nhân mà thậm chí cha mẹ, các con không nhận ra hoặc mới chỉ lờ mờ nhận ra.
1. Khả năng “xuyên thấu vấn đề gốc” qua Quan sát – Trao đổi trực tiếp
✅ Năng lực nhìn xuyên qua lớp vỏ bọc hành vi (bướng, lỳ, ngỗ nghịch, nhút nhát, dễ khóc…) để “chạm” đúng gốc rễ tổn thương hoặc lệch chuẩn tâm lý của trẻ.
✅ Chỉ sau 10 – 20 phút, đã chỉ ra được nguyên nhân gốc khiến con chậm nói, chậm tư suy, lo âu, tăng động, trầm cảm, rối loạn hành vi, rối loạn cảm xúc….hoặc tính cách lì bướng, chống đối, bất hợp tác, buông bỏ học tập, a dua xấu hoặc các khủng hoảng tâm lý khác mà họ đi hàng năm thậm chí vài năm không ai phát hiện ra.
2. Tư duy và quan điểm “Trị tận gốc” – Không chỉ chạy theo triệu chứng
Khác với nhiều trung tâm hoặc chuyên gia tâm lý khác chỉ giải quyết “mặt nổi” (ví dụ: con cáu giận → dạy con kiểm soát cảm xúc) Chuyên gia Phạm Hiền luôn đi thẳng vào tất cả các ngóc ngách căn nguyên bên trong để chặt bỏ từng chân rết gây ra vấn đề của con.
3. Quá trình trị liệu mang tính Tái cấu trúc sâu sắc cho cả con trẻ và phương pháp dạy con của cha mẹ chứ không chỉ sửa hành vi hoặc biểu hiện bên ngoài.
✅ Không vòng vo giáo điều mà dạy các con cách Trị liệu chính con từ nhận diện được vấn đề của mình, căn nguyên từ mình, căn nguyên từ xung quanh là lấy mình là trung tâm để điều chỉnh, điều khiển mọi thứ theo quỹ đạo đúng với quy luật khiến con không phải khổ sở trái chiều.
✅ Luôn có sự nhạy bén để bắt được các cơ hội vàng, các khoảnh khắc trong từng buổi tư vấn và trị liệu từ đó luôn có lộ trình mục tiêu trị liệu và kết quả cần đạt rõ ràng với từng con trẻ.
✅ Cha mẹ được tư vấn hướng dẫn để hiểu đúng, hiểu rõ nét tỉ mỉ từng vấn đề của con, từng căn nguyên và cách đồng hành cùng con để chặt bỏ từng chân rết gây ra vấn đề của con từ chính con, từ cha mẹ, từ trường lớp hoặc trong các môi trường sống khác ảnh hưởng đến con.
4. Phân tích tâm lý sắc bén – không theo mẫu lý thuyết cứng nhắc và đơn thuần
✅ Không máy móc theo “khuôn lý thuyết sách vở”, mà dựa vào trực giác kinh nghiệp nghề nghiệp trong tiếp cận quá nhiều cung bậc màu sắc các con và cha mẹ + logic phân tích nhạy bén chuyên sâu quy luật phát triển Tư duy nhận thức/ Tính cách/ Tâm lý/ Cảm xúc/ Hành vi/ Thái độ/ Kỹ năng/Khả năng của con trẻ để điều chỉnh liệu trình theo từng cá thể con trẻ trong từng giai đoạn trị liệu.
5. Coi trị liệu là Hành trình chuyển hóa cả gia đình – Không chỉ đứa trẻ
✅ Ngoài làm việc đơn lẻ với con trẻ thì Chuyên gia luôn bắt buộc phải làm việc với cả cha mẹ. Vì với kinh nghiệm gần 30 năm trong tiếp cận cha mẹ, con cái chuyên gia luôn khẳng định phần lớn tổn thương của con bắt đầu từ môi trường nuôi dưỡng. Ngoài ra giúp con tốt nhất cũng là khi cha mẹ phải hiểu vấn đề của con đến tận cùng và có phương pháp để giúp con mọi lúc, mọi nơi không phải chỉ trong hiện tại mà trong các độ tuổi tiếp theo.
✅ Con trẻ không thể hồi phục nếu gia đình không thay đổi. Do đó, trị liệu cùng chuyên gia Phạm Hiền là một “liệu trình tỉnh thức cả gia đình”. Trong đó cha mẹ sẽ: Hiểu mình đã sai/lệch chỗ nào/ Biết cách lắng nghe/ Biết phương pháp chữa lành cho con/ Có kỹ năng Xây lại mối gắn kết đã đứt gãy trong gia đình hoặc trong mối quan hệ cha mẹ, con cái.
💡 Vậy nên cần suy nghĩ kỹ tính phù hợp khi đến với chuyên gia:
➡️ Không chỉ là người “chữa trẻ”, mà là người “thức tỉnh cha mẹ và khôi phục sự gắn kết nguyên bản giữa con và người nuôi dưỡng”.
➡️ Chẩn đoán nhanh – sâu – đúng gốc nên sẽ chạm vào rất nhiều vấn đề tiềm ẩn không mong muốn được nghe của cả cha mẹ và con
➡️ Trị liệu từ căn nguyên tâm lý gốc chứ không “chữa ngọn” nên sẽ dẫn dắt cha mẹ, các con bằng sự thật đôi khi “chát chúa” nhưng cần thiết đê tạo cú hích chặt bỏ nhanh, dứt điểm rối nhiễu xung quanh vấn đề khiến con khổ sở
➡️ Đồng hành cùng cha mẹ trong việc trị liệu cho con như người bạn đồng chí hướng, không phán xét, không tô hồng nhưng rất nghiêm khắc với sự bắt buộc cha mẹ phải học tỉ mỉ phương pháp và đồng hành cùng tỉ mỉ theo chỉ dẫn
➡️ Để đạt nhanh hiệu quả tránh lãng phí tiền của, thời gian, công sức và cơ hội phục hồi của con chuyên gia khá khắt khe trong việc cha mẹ phải có niềm tin vào sự phục hổi của con để từ đó chiến đấu trong sự kiên trì, nhẫn nại, vượt khó thậm chí phải vượt qua rất nhiều áp lực từ sự rối nhiễu giữa đặt niềm tin hay lo sợ để có được sự vững tin và ý chí giúp con
📌 P2. Khi tiếp cận để chuyên gia tư vấn hoặc trị liệu tâm lý cho con cha mẹ cần chú ý gì?
Khi cha mẹ tiếp cận chuyên gia để tư vấn hoặc trị liệu cho con, chính thái độ và cách tiếp cận ban đầu của cha mẹ sẽ quyết định phần lớn hiệu quả tích cực hay tiêu cực của toàn bộ quá trình.
Đặc biệt khi làm việc với một chuyên gia như Phạm Hiền — Người có phong cách tư vấn thẳng, thật, và đào sâu gốc rễ thì sự chuẩn bị tâm thế đúng đắn nhất từ phía cha mẹ càng rất phải được coi trọng là quan trọng.
1. Hạ kỳ vọng Sửa con – Nâng nhận thức Hiểu con
✅ ĐỪNG NÓI “Em mong chị chữa con em để nó nghe lời” – HÃY NÓI “Em muốn hiểu con hơn.” . Vì sau đó chuyên gia chắc chắn sẽ hướng dẫn cha mẹ chữa để con nghe lời từ chính sự đã hiểu con của cha mẹ
✅ ĐỪNG NÓI ” Tại con, tại nó cố tình và em đã hết cách – HÃY NÓI “Em sẵn sàng thay đổi, sẵn sàng đồng hành để con thay đổi và phát triển tốt nhất .”. Vì với chuyên gia thì chẳng có đứa trẻ nào cố tình ngược bố mẹ nếu nó đã biết là biết nó sai hoặc nó có bất ổn.
👉 Chuyên gia không phải là “người sửa lỗi” cho con – mà là người giúp cả cha mẹ và con bước vào hành trình chữa lành và tái kết nối.
2. Sẵn sàng lắng nghe điều mình không muốn nghe
✅ Chuyên gia sẽ nói thẳng – thật – đau để cha mẹ và con thức tỉnh từ đó có sự bứt phá nhanh nhất mà không phải là sự ru ngủ huyễn hoặc dễ nhất để mất đi cơ hội vàng được phục hồi cao nhất: “ Bố mẹ đang làm tổn thương con mỗi ngày.” hoặc ” Bố mẹ cứ thỏa mãn cảm xúc của mình để hủy hoại con à” hoặc ” Quan điểm dạy con của Bố mẹ đang là một tác nhân gây ra vấn đề này đấy, liệu có thay đổi được quan điểm không”.
✅ Chuyên gia cố tình chạm mạnh để va đập cảm xúc của cha mẹ đến tận cùng của kể cả là tiêu cực và nếu bạn sẵn sàng lắng nghe những điều ấy, dù khó chịu lúc đầu, bạn sẽ mở ra cánh cửa phục hồi cho con.
✅ Nếu bạn phản ứng bằng phòng thủ, tự ái, phủ nhận, bạn đang chặn đường thay đổi của chính con mình.
3. Đừng xem chuyên gia như “dịch vụ” phục vụ khách hàng – mà là “đồng minh”
✅ Nếu cha mẹ tiếp cận với tâm thế: “Mình đang thuê một chuyên gia để giải quyết một vấn đề.”→ bạn sẽ dễ mất kiên nhẫn, đòi kết quả nhanh, áp đặt kỳ vọng, đòi mình như thượng đế phải được thấu hiểu thì không nên lựa chọn chuyên gia Phạm Hiền. Vì chuyên gia làm việc về con người chứ không phải phục vụ dịch vụ khách hàng và chuyên gia càng không bao giờ vì tiền mà để phụ huynh điều khiển năng lực chuyên môn và tâm huyết của mình.
✅ Nếu cha mẹ tiếp cận với tâm thế xem chuyên gia là đồng minh cùng mình cứu lấy tâm hồn con: Cha mẹ sẽ cởi mở hơn, lắng nghe tích cực trọng sự sẵn sàng thay đổi bản thân, hợp tác bền bỉ, dài hạn. Đặc biệt hiểu rõ nét hơn về quan điểm của chuyên gia khi vào cuộc thực sự và thực tế bằng sự đến cùng giúp con.
4. Chuẩn bị đầy đủ thông tin – nhưng không tô hồng hay che giấu
✅ Khi gặp chuyên gia, cha mẹ cần: Kể trung thực quá trình phát triển, tính cách, hành vi, bệnh sử, trải nghiệm của con.
✅ ĐỪNG NÓI: “Con nhà tôi ngoan, chỉ thỉnh thoảng cáu thôi…” nếu thực tế là trẻ đập phá, hét la. Không tô hồng mình (“Tôi làm gì cũng vì con”) nếu biết mình từng đánh mắng, trừng phạt con quá mức vì chuyên gia sẽ đọc vị được nó đúng hay chưa đúng rất thẳng thắn. Đồng thời cần chất lượng trị liệu cao nhất, nhanh nhất nên HÃY NÓI Càng minh bạch – càng dễ trị liệu trúng đích.
5. Coi con là con người – không phải “dự án sửa chữa”
✅ ĐỪNG NÓI: “Em đã tốn biết bao nhiêu tiền rồi mà con chẳng thay đổi.” hay: “Nó thế này là xấu hổ với nhà nội – nhà ngoại.”. HÃY NÓI “Em sẽ luôn nỗ lực nếu được hướng dẫn phương pháp”
👉 Những câu như vậy khiến trẻ cảm thấy mình là gánh nặng, và chuyên gia cũng khó tiếp cận trẻ.
6. Cho phép quá trình thay đổi có thời gian – không ép kết quả ngay
✅ Có cha mẹ sau vài buổi trị liệu liền hỏi: “Sao con vẫn còn khó chịu?”. Có người nóng ruột, muốn thấy kết quả ngay trong từng buổi. Chính điều này tạo áp lực cho con và cả chuyên gia.
✅ Hãy hiểu rằng: Tổn thương tâm lý là thứ sâu và dai dẳng. Thay đổi tâm lý của đứa trẻ không phải chỉ là biểu hiện cảm xúc hay hay hành vi hiện hữu mà là hành trình thay đổi từ lối tư duy nhận thức trong từng ngóc ngách vấn đề và ngóc ngách căn nguyên – không phải món đồ “mua xong có hàng” càng không phải như ” Sửa chữa đồ điện tử vói hỏng hóc nhẹ”
7. Gieo niềm tin cho con trước khi trị liệu
✅ ĐỪNG DỌA “Đưa con đến bác sĩ tâm lý đó, xem có bị điên không!” HÃY NÓI “Mẹ có người bạn rất tâm huyết giúp những bạn đang buồn, đang mệt. Mình thử đến chơi và chia sẻ với bác ấy nhé.”
✅ ĐỪNG NÓI “Gặp bác Phạm Hiền để con được dạy dỗ không bướng nữa!” HÃY NÓI “Bố mẹ cũng đang học cách làm cha mẹ tốt hơn. Cả nhà cùng học để làm bạn giúp nhau cùng vui và hạnh phúc nhé.”
👉 Điều này giúp con mở lòng, không phòng thủ, và hiệu quả trị liệu sẽ đến nhanh hơn nhiều.
8. Cha mẹ xác định bị chạm vào sự thật trần trụi mà cha mẹ thường né tránh
✅ Các sai lầm của con từ con.
✅ Các sai lầm của ông bà, cha mẹ khiến con như vậy.
✅ Các sai lầm thầy cô, bạn bè và các mối quan hệ khác khiến con bị như vậy.
👉 Điều này giúp mổ xẻ để tìm ra từng ngóc ngách của vấn đề và ngóc ngách của từng căn nguyên trong từng vấn đề của con.
9. Không chỉnh hành vi – mà tái lập nền móng tâm lý nên nó đòi hỏi cả cha mẹ, các con phải va đập khá nhiều trong hiện thực và cả trái chiều
✅ Chuyên gia Không có quan điểm “sửa con” cho nghe lời răm rắp, không “ép con” học giỏi theo kỳ vọng của con hay của cha mẹ mà chữa cái gốc trong cấu trúc tâm lý, cảm xúc, hệ giá trị của con.
✅ Với chuyên gia thành tích không quan trọng bằng sự ổn định và lành mạnh từ bên trong nội tâm và tinh thần của con trẻ nên trị liệu không phải để con “trở nên dễ dạy”, mà để con biết tự hiểu mình, tự điều hướng cuộc sống của chính con trong tự nhận thức và tự chuyển hoá tiêu cực, tự biết giải quyết nó tận gốc.
10. Bắt buộc với Tái thiết lại mối quan hệ cha mẹ – con cái như một “liệu trình gia đình”
✅ Nhiều cha mẹ ban đầu đến với chuyên gia với suy nghĩ: “Cứ chữa cho con là được.” -> Nhưng sau đó nhận ra cả nhà phải cùng trị liệu.
✅ Cả gia đình phải có sự kết hợp cao trong sự cùng nhau đồng hành cùng con vì chuyên gia sẽ cần phải làm việc cả với cha, với mẹ, với ông bà – nếu đó là người nuôi dạy mà có yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề của con.
✅ Đặc biệt chuyên gia sẽ ngăn chặn triệt để quan điểm của gia đình khi cho rằng khi con bị bệnh thì phải vuốt ve, phải đáp ứng tất cả các đòi hỏi của con. Vì đòi hỏi cũng là một tác nhân lớn khiến con mất kiểm soát hơn trong cả nhận thức, cảm xúc, hành vi. Với chuyên gia “Nếu không thay đổi cách yêu thương con bằng đáp ứng và lựa hoàn toàn theo các yếu điểm của con – thì dù con có đỡ hôm nay, cũng sẽ tái lại mai sau.”
11. Mỗi đứa trẻ là một “mã tâm lý riêng” – không áp dụng công thức vô thức
✅ ĐỪNG BAO GIỜ NÓI ” Căn cứ vào đâu mà chuyên gia nói như vậy” hoặc “Chuyên gia phải cho tôi một công thức chuyên môn để đo lường mức độ của con tôi chứ”. Vì Cảm xúc và tâm lý của đứa trẻ không thể đo lường và nó luôn chuyển động lên xuống, rẽ ngược xuôi liên tục.
✅ ĐỪNG KỲ VỌNG ” Áp dụng phương pháp nếu đúng thì con phải thay đổi ngay chứ” hoặc ” Sao không cho tôi một công thức dễ áp dụng một chút”. Vì hãy nhớ con là con người không phải một cỗ máy có thể tháo dỡ, lắp đặt lại theo ý muốn.
12. Chuyên gia “nói thay tiếng lòng của con” – tạo kết nối rất đặc biệt với trẻ
Nhiều cha mẹ chứng kiến cảnh: Chuyên gia Phạm Hiền chỉ nói vài câu, trẻ ôm chị khóc, hoặc bỗng nhiên cởi mở và chia sẻ những điều chưa từng nói ra mà tường rằng chuyên gia bênh vực sai lầm của con . Vì chỉ đơn giản bác ấy có khả năng “đọc vị cảm xúc thầm lặng” của trẻ – những điều con không biết diễn đạt bằng lời, nhưng đang bộc lộ bằng ánh mắt, cử chỉ, tính cách, cảm xúc, thái độ, hành vi hoặc gồm cả là từ sự im lặng của chúng.
13. Không thỏa hiệp với sai lệch – nhưng không phán xét
✅ Rất thẳng thật – thậm chí làm phụ huynh “khó chịu” hoặc “ngượng ngùng” khi chỉ ra lỗi sai của họ ảnh hưởng đến con. Nhưng điều khác biệt là: không phán xét, không mạt sát, mà dẫn dắt bằng tỉ mỉ, chi tiết từ sự tâm huyết đến cùng và rõ ràng nhất.
✅ Thái độ của chuyên gia “Không cần các bố mẹ phải hoàn hảo. Nhưng nếu không sửa các sai lầm của mình trước con , thì đừng đòi con phải thay đổi hay phát triển tốt.”
14 . Liệu trình trị liệu là hành trình sống – không phải dịch vụ
✅ Đừng muốn có lộ trình sẵn có một lần: Vì mỗi hiện trạng con trẻ là mỗi lộ trình khác nhau trong từng giai đoạn.
✅ Đừng hỏi mất thời gian bao lâu: Vì không “đóng gói theo buổi” mà sẽ đánh giá sự thay đổi của con theo từng buổi, từng tuần để đưa ra mục tiêu tiếp theo.
✅ Đừng muốn chuyên gia vẽ ra cam kết hứa hẹn vì bác thường chỉ có một lời “Nếu thật lòng muốn giúp con thay đổi – Bác sẽ nỗ lực đi cùng cha mẹ. Còn nếu mong có phép màu – Bác không có.”
💡 Vậy nên cần suy nghĩ kỹ tính phù hợp
➡️ Phong cách tư vấn: Mạnh – Thẳng – Thật – Không an ủi và chỉ dẫn, định hướng chuyên sâu quyết đoán.
➡️ Đối tượng trị liệu: Con trẻ trị liệu tái cấu trúc toàn diện – Cha mẹ trị liệu tái cấu trúc tương tác và dạy con toàn diện.
➡️ Phương pháp: Cá thể hoá – Không rập khuôn công thức.
➡️ Trọng tâm trị liệu: Gốc nhận thức và tâm lý – Không chạy theo hành vi.
➡️ Mối quan hệ với trẻ: Gắn kết tự nhiên – không ép buộc nhưng rất nghiêm túc và nghiêm khắc tạo cho trẻ nội lực tự thay đổi.
➡️ Cam kết: Không vẽ lời hứa – Nỗ lực làm đến đâu rõ đến đó.
📌 P3. Cha mẹ và con thường nói gì và có kết quả gì sau tư vấn hoặc trị liệu tâm lý với chuyên gia
✅ Hiệu quả trước và sau khi trẻ được tư vấn hoặc trị liệu với chuyên gia Phạm Hiền thường rất rõ rệt — Không chỉ ở sự thay đổi của đứa trẻ, mà còn ở sự chuyển biến nhận thức và hành vi của cha mẹ. Điểm đặc biệt là sự thay đổi ấy thường đến từ sự tác động thẳng vào “gốc rễ” vấn đề, chứ không chỉ xử lý phần ngọn như thường thấy.
✅ Câu nói mà nhiều cha mẹ chia sẻ: “Em đến tìm bác Hiền để chữa con, nhưng cuối cùng chữa được cả chính em” hoặc “Điều tuyệt vời nhất không phải là con thay đổi, mà là cả nhà cùng hồi sinh”
1. Trước khi tư vấn – cha mẹ thường nói gì?
✅ Con em bướng lắm, không nghe lời, cứ cãi lại mẹ.
✅ Nó học kém, lười học, không tập trung được gì cả.
✅ Cháu nhà em rất nhút nhát, không dám nói chuyện với ai.
✅ Con lì và bướng lắm, luôn chống đối khiến em phát điên.
✅ Nó cứ ở nhà thu mình, không muốn ra khỏi phòng.
✅ Con em hay nổi cáu, đánh em, em lo con bị tự kỷ hoặc tăng động.
✅ Em cạn lời và hết cách rồi, không biết dạy con kiểu gì nữa.
✅ Con em chống đối và gây rối khiến thầy cô kêu ca , các bạn kỳ thị.
👉 Lúc này, đa số cha mẹ chỉ nhìn thấy vấn đề ở hành vi của con, và thường mong chuyên gia “sửa” con giùm mình.
2. Trong quá trình tư vấn, trị liệu – phản ứng ban đầu thường là… “bị sốc”
✅ Bác nói thẳng quá, em nghe mà đau tận tim. Nhưng đúng thật, em toàn mắng con mà không hiểu nó đang khổ.
✅ Lúc đầu em tưởng bác đang chỉ trích mình, nhưng càng nghe càng thấy xấu hổ, vì đúng là bao năm qua mình sai quá nhiều.
✅ Em cứ tưởng con mình có vấn đề, ai ngờ chính em mới là người cần được chữa.
✅ Lúc đầu em tưởng mình đẻ ra con thì phải hiểu con hơn bác. Nhưng bác đã vạch ra từng góc tối trong tâm lý của con, mà em chưa bao giờ nhìn ra.
👉 Đây là giai đoạn “đập vỡ ảo tưởng” – nhiều cha mẹ phải đối diện với lỗi hệ thống trong cách nuôi dạy, cách yêu thương, và cả tổn thương vô thức mà chính mình đang truyền cho con.
3. Sau một thời gian đồng hành – phản hồi của cha mẹ thay đổi hoàn toàn:
📣 CHA MẸ NÓI
✅ Em không còn cáu gắt với con như trước nữa, mà biết ngồi xuống nhẫn nại nói chuyện với con. Chính vì vậy mẹ con không xung đột và em cũng không bị áp lực phát điên lên.
✅ Con bây giờ ôm mẹ và nói “Con yêu mẹ” – điều mà trước đây chưa bao giờ xảy ra.
✅ Trước kia con học mà khóc, phải thúc ép mệt mỏi nhưng giờ con tự giác, tự học, và tự tin trình bày quan điểm, ý kiến.
✅ Trước kia con rất kích kỷ nhưng bây giờ Con biết chia sẻ, biết nhận lỗi, biết xin lỗi và tha thứ.
✅ Khi tâm lý con được tháo gỡ thì học tập con ham học hơn và có ý chí hơn rất nhiều
✅ Khi trị liệu tâm lý toàn diện thì đúng như bác nói Tư duy nhận thức con tốt hơn, kỹ năng và khả năng thể hiện mình tốt hơn nên con cân bằng tích cực được tính cách, tâm lý, cảm xúc, hành vi. Điều mà trước đây em cứ nghĩ là bản tính khó di dời của con.
✅ Vợ chổng em không cãi nhau vì trái chiều dạy con nữa nên Gia đình em như bắt đầu lại từ đầu – hiểu nhau hơn, yêu nhau đúng cách hơn.
📣 CON TRẺ NÓI
✅ Con thấy nhẹ lòng hơn khi có người nghe con thật sự.
✅ Con không còn sợ mẹ la như trước, vì mẹ giờ lắng nghe con nhiều hơn.
✅ Con thích đến gặp bác vì bác giúp con luôn thấy tự tin vào chính con
✅ Bác Phạm Hiền giúp con biết là con không phải đứa trẻ xấu và hư
✅ Con biết cách để không nổi giận và biết yêu thương mình hơn
✅ Con không còn thấy áp lực từ bố mẹ và thầy cô nữa
✅ Con đã biết các yếu điểm của mình và con muốn thay đổi nó
✅ Con không sợ bác Phạm Hiền vì bác nghiêm nhưng bác cho con biết sự thật về con để con thay đổi tốt nhất
✅ Con đã không còn thấy ám ảnh hay sợ hãi nữa vì con biết biến nó thành thứ gì đó thú vị hơn
✅ Con thấy việc làm phiền và gây rối thầy cô, bạn bè khiến con bị thiệt thòi hơn là vui
👉 Đặc biệt, nhiều trẻ tự kỷ, trầm cảm, rối loạn lo âu, hoặc tổn thương nặng sau quá trình trị liệu dần hồi phục, giao tiếp được, vui vẻ hơn, học tốt hơn, và sống “thật là trẻ con” trở lại.
4. Con thay đổi như thế nào sau liệu trình tư vấn, trị liệu
📚 Về tâm lý – cảm xúc của con trẻ trước và sau tư vấn, trị liệu
✅ Lo âu, sợ hãi, rối loạn cảm xúc -> Bình ổn cảm xúc, biết diễn đạt điều mình nghĩ và cảm thấy
✅ Tự ti, thu mình, không dám nói -> Tự tin hơn, dám trình bày ý kiến, chủ động kết nối
✅ Nóng nảy, cáu giận, phản kháng -> Biết kiềm chế, biết nói “Con đang tức” thay vì đánh hoặc la
✅ Không bộc lộ cảm xúc thật -> Biết chia sẻ, mở lòng với cha mẹ và người thân
📚 Về hành vi – giao tiếp xã hội của con trẻ trước và sau tư vấn, trị liệu
✅ Trốn học, lười học, mất tập trung -> Hứng thú học tập, tự giác hơn, cải thiện kết quả học tập
✅ Bướng, không nghe lời, chống đối -> Biết hợp tác, lắng nghe, cư xử đúng mực
✅ Ngại tiếp xúc người lạ, né tránh xã hội -> Tham gia nhóm, chơi cùng bạn, mạnh dạn hơn
✅ Có hành vi gây rối: đánh em, đập phá, la hét -> Ổn định hành vi, kiểm soát bản thân, sống hòa đồng
✅ Nghiện game, thuốc, a dua xấu -> Ngắt bỏ game, thuốc, các tệ nạn và không gây gổ đánh nhau
📚 Về quan hệ với cha mẹ, gia đình trước và sau tư vấn, trị liệu
✅ Con – cha mẹ căng thẳng, hay cãi vã -> Biết lắng nghe nhau, đối thoại nhẹ nhàng
✅ Con không chia sẻ, hay nói dối, trốn tránh -> Con chủ động kể chuyện, thành thật
✅ Cha mẹ cảm thấy bất lực, mất kết nối -> Cha mẹ hiểu con, cảm thấy gắn bó trở lại
✅ Gia đình xung đột vì cách dạy con -> Gia đình có tiếng nói chung, hỗ trợ nhau nuôi dạy
📚 Về nhận thức và giá trị sống trước và sau tư vấn, trị liệu
✅ Trẻ không có mục tiêu rõ ràng, sống buông xuôi -> Trẻ có định hướng rõ ràng, biết điều mình muốn.
✅ Trẻ chỉ hành động theo ép buộc, không hiểu “tại sao” -> Trẻ có khả năng tư duy, phản biện, và lựa chọn đúng sai.
✅ Trẻ cảm thấy mình “vô dụng” hoặc “xấu xa” -> Trẻ cảm nhận được giá trị bản thân, biết yêu thương chính mình
✅ Trẻ hành xử theo bản năng, cảm xúc chi phối -> Trẻ biết dừng lại, suy nghĩ, và lựa chọn hành vi phù hợp
🌟 TÓM TẮT VỀ ĐÍCH ĐẾN VÀ HIỆU QUẢ
💡 Hiệu quả đặc biệt từ chiều sâu chuyên môn và tâm huyết
✅ Đi thẳng vào gốc rễ, nên thay đổi là sâu sắc và có tính tái cấu trúc tâm lý.
✅ Trẻ được lắng nghe, học cách tự chữa lành, thay vì bị đánh giá hay chỉnh sửa hành vi tức thời.
✅ Cha mẹ được “trị liệu song song” khi được dẫn dắt thay đổi tư duy, phong cách nuôi dạy, học cách đồng hành đúng với đứa con cụ thể của mình.
✅ Không chữa cho trẻ như “một ca bệnh”, mà khôi phục lại mối quan hệ cha mẹ – con cái.
✅ Liệu trình dựa trên thực chất – tiến bộ là rõ ràng, từng bước, từng giai đoạn.
💡 Nỗ lực đồng hành để Đạt được đích đến nhanh nhất cho con và cha mẹ
✅ Trước trị liệu: Con rối loạn, cha mẹ bất lực, gia đình căng thẳng, mối quan hệ đứt gãy.
✅ Sau trị liệu: Con ổn định, cha mẹ thấu hiểu, gia đình gắn kết, hành trình phát triển tiếp tục với nền tảng lành mạnh.
👶 VỚI CON TRẺ
✅ Tự tin và chủ động tương tác
✅ Giao tiếp tự nhiên hơn
✅ Kiểm soát cảm xúc tốt hơn
✅ Có mục tiêu học tập rõ ràng
✅ Gắn bó, gần gũi với cha mẹ
✅ Có trách nhiệm và yêu bản thân, yêu gia đình
✅ Có cảm nhận và bộc lộ cảm xúc tốt
✅ Cầu thị thay đổi và có mục tiêu làm chủ chủ phát triển bản thân
✅ Khả năng tự phát triển toàn diện tốt
✅ Đời sống tinh thần cân bằng, ổn định và vui vẻ
👥 VỚI CHA MẸ
✅ Biết lắng nghe và thấu hiểu con đúng
✅ Biết làm chủ cảm xúc bản thân
✅ Có phương pháp dạy con toàn diện
✅ Có mục tiêu và định hướng phát triển rõ ràng cho con
✅ Hiểu con từ gốc cách dạy con
✅ Biết cách tự chữa lành cho mình, cho con và cho gia đình
MỖI CON TRẺ LÀ MỘT MÓN QUÀ CỦA CHA MẸ -> HÃY MỞ NÓ RA MỘT CÁCH CẨN TRỌNG – HÃY NUÔI DƯỠNG NÂNG NIU NÓ ĐÚNG CÁCH – HÃY GIÚP NÓ GIA CÔNG VÀ BẢO DƯỠNG ĐỜI SỐNG TINH THẦN TRONG TỪNG ĐỘ TUỔI -> ĐÓ MỚI LÀ NHỮNG GÌ NÓ CẦN NHẤT ĐỂ TỰ PHÁT TRIỂN ĐÚNG NHẤT.
(XEM THÊM)
HIỂU ĐÚNG VỀ RỐI LOẠN ÁM ẢNH CƯỠNG CHẾ Ở CON TRẺ & GÓC NHÌN PHỤ HUYNH VỀ LIỆU PHÁP TRỊ LIỆU TÂM LÝ CỦA CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN
📌 P1. Phụ huynh hiểu đúng về rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở con trẻ
Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền – người đồng hành cùng hàng nghìn trẻ rối loạn phát triển – đã có nhiều chia sẻ rất rõ ràng và thực tế giúp phụ huynh hiểu đúng về rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) ở trẻ em. Chuyên gia tâm lý không chỉ “giải mã” rối loạn này bằng kiến thức chuyên môn, mà còn diễn giải bằng ngôn ngữ đời sống, dễ hiểu, gần gũi để phụ huynh không hoảng loạn nhưng cũng không thể hiểu sai.
1. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) không phải “thích sạch” hay “cầu toàn” đơn thuần
=> Cha mẹ hay nói: ‘Con tôi bị OCD vì nó hay rửa tay 10 lần/ngày’. Nhưng OCD không phải chỉ là hành vi, mà là một chuỗi cảm xúc – suy nghĩ – lo âu hoặc phấn khích lặp lại không kiểm soát được.
=> Cần hiểu đúng rằng Trẻ OCD bị mắc kẹt trong vòng xoáy suy nghĩ ám ảnh (obsessions) như: sợ bẩn, sợ người thân chết, sợ làm sai, sợ phạm lỗi. Để xoa dịu nỗi sợ đó, trẻ thực hiện hành vi cưỡng chế (compulsions) như: rửa tay, kiểm tra cửa, lặp lại lời nói, xếp đồ theo thứ tự nhất định, hoặc nói nhiều, hoặc luôn muốn phải có người quan tâm một cách sôi động để không bồn chồn với cảm xúc của mình…Thậm chí Nếu không làm, trẻ cực kỳ lo lắng, bất an, có thể gào khóc vô thức – tinh thần sụp đổ – hoảng loạn.
2. Cha mẹ càng “chiều theo” hành vi cưỡng chế – con càng lệ thuộc
=> Khi con bạn yêu cầu mẹ phải chạm vào tường 3 lần hoặc bất kỳ biểu hiện nào từ cảm xúc, lời nói hành vi rồi mới đi ngủ, và bạn làm theo để con không khóc – bạn vô tình tiếp tay cho nỗi ám ảnh lớn hơn mỗi ngày.
=> Cần hiểu đúng rằng cha mẹ Không được phản ứng cảm xúc mạnh (la mắng, cấm đoán) khi trẻ cưỡng chế.
=> Không chiều theo cưỡng chế, thay vào đó: Ghi nhận nỗi lo của con (“Mẹ thấy con lo thật sự khi chưa rửa tay.”). Dẫn dắt con chuyển hướng hành vi, không dập tắt đột ngột.
3. Trẻ mắc OCD không bị “hư” hay “lập dị” – mà não con đang rối
=> OCD là một rối loạn thực sự của vùng não liên quan tới kiểm soát, ức chế và lo âu. Con bạn không cố chấp – mà con bất lực trước những ý nghĩ trong đầu.”
=> Cha mẹ cần hiểu rằng Không gán nhãn con: “Con điên à?”, “Con bị thần kinh hả?” – gây tổn thương lâu dài. Cha mẹ cần học cách nhìn con như người đang cần giúp, không phải người đang gây rối.
4. Có thể can thiệp OCD bằng trị liệu hành vi – không cần phụ thuộc thuốc
=> Phần lớn trường hợp OCD ở trẻ có thể kiểm soát được nếu can thiệp đúng cách – kịp thời – phối hợp trị liệu gia đình. Thuốc chỉ nên dùng khi trẻ rơi vào mức độ nặng.”
=> Cha mẹ hiểu rằng cần Trị liệu từ tư duy nhận thức hành vi để giúp trẻ đối diện và tái lập lại suy nghĩ sai lệch. Phơi nhiễm & ngăn phản ứng từng bước giúp con chịu được nỗi lo mà không làm hành vi cưỡng chế.
=> Cha mẹ cần có phương pháp để phản ứng đúng hỗ trợ con vượt qua từng bước mà không phải là sự huyễn hoặc chạy theo các nỗi ám ảnh của con
5. Cách phản ứng của cha mẹ khi trẻ cưỡng chế.
Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền — người có nhiều kinh nghiệm trong trị liệu cho trẻ em mắc các rối loạn tâm lý như ám ảnh cưỡng chế (OCD) — đã chia sẻ rất rõ về cách cha mẹ cần phản ứng khi con có dấu hiệu bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
✅Cha mẹ không được coi nhẹ biểu hiện của con
=> Cha mẹ hay có xu hướng chủ quan: Cho rằng con chỉ ‘nghĩ linh tinh’, ‘làm trò’, hoặc ‘bắt chước ai đó’. Nhưng những biểu hiện lặp đi lặp lại, không kiểm soát, gây lo âu, sợ hãi là tín hiệu cảnh báo rõ ràng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
=> Sai lầm thường gặp: Cười cợt, coi nhẹ, trách mắng con khi thấy các hành vi kỳ lạ như rửa tay liên tục, sắp xếp đồ vật quá mức, sợ bẩn, kiểm tra khóa cửa nhiều lần…
=> Cần thay đổi: Ghi nhận các hành vi lặp lại và quan sát mức độ ảnh hưởng đến sinh hoạt của con.
✅Phản ứng đầu tiên: Bình tĩnh – Không làm tăng nỗi sợ của con
=> Cảm xúc của cha mẹ có thể khuếch đại nỗi ám ảnh trong con. Đừng tỏ ra hoảng loạn hay cáu gắt.
=> Đừng nói: “Con làm cái trò vớ vẩn gì đấy?”, “Con bị điên à?”, “Thôi đi, làm sao mà bẩn được?”.
=> Hãy nói: “Con đang cảm thấy rất khó chịu đúng không?”, “Bố/mẹ thấy con đang cố kiểm soát điều gì đó, con có muốn nói không?”
✅Không thỏa hiệp với hành vi cưỡng chế – nhưng không cưỡng ép ngừng ngay
=> Nếu con muốn bạn cũng phải kiểm tra khóa cửa 10 lần cùng, hãy nhẹ nhàng khước từ thay vì chiều theo, nhưng cũng đừng cấm đoán ngay.”
=> Sai lầm : Cha mẹ luôn lựa để Làm theo yêu cầu ám ảnh của con từ đó tăng củng cố hành vi.
=> Cần thay đổi: Nói: “Bố/mẹ hiểu con lo lắng, nhưng chúng ta sẽ kiểm tra một lần thôi, sau đó thử cùng nhau chịu đựng cảm giác chưa chắc chắn một chút, được không?”
✅Ghi nhật ký hành vi – chuẩn bị cho quá trình trị liệu
=> Phụ huynh cần ghi lại: Hành vi gì? Bao nhiêu lần/ngày? Trong tình huống nào? Mức độ lo lắng của con trước và sau hành vi đó.
=> Điều này giúp chuyên gia hoặc bác sĩ tâm lý chẩn đoán và xây dựng kế hoạch trị liệu hành vi tiếp xúc và phản ứng phòng tránh (ERP – Exposure and Response Prevention).
✅Tìm đến chuyên gia sớm nhất có thể
=> Cha mẹ không thể tự điều trị OCD cho con. Hãy đưa con đi đánh giá chuyên sâu tại nơi có chuyên gia hiểu rõ về rối loạn này.
=> Chú ý nguyên tắc phải trị liệu hành vi, nhận thức – kết hợp hỗ trợ cha mẹ trong thay đổi môi trường giao tiếp, giảm tác nhân kích thích.
✅Cha mẹ cần trị liệu đồng hành – không chỉ con
=> Con ám ảnh, nhưng nếu cha mẹ tiếp tục căng thẳng, kiểm soát, hoặc phản ứng tiêu cực thì con rất khó hồi phục.”
=> Cha mẹ học cách: Điều chỉnh kỳ vọng. Tạo không gian an toàn cho con biểu đạt lo lắng mà không bị phán xét. Biết cách hỗ trợ phơi nhiễm dần dần (cùng chuyên gia hướng dẫn).
✅Cần kiên trì và chấp nhận lộ trình lâu dài
=> Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) không hết chỉ sau vài buổi. Nhưng nếu đúng cách, trẻ có thể kiểm soát và sống ổn định với nó.
=> Có giai đoạn trẻ “lên – xuống thất thường”, dễ khiến cha mẹ nản.
=> Hãy nhớ: Không ai hồi phục nếu bị ép mà chỉ có thể hồi phục khi được hiểu và đồng hành đúng.
6. Một số cảnh báo cha mẹ không chủ quan
=> Đừng coi OCD là “tính cách”, mà hãy nhìn đúng là rối loạn.
=> Yêu thương không phải là đáp ứng mọi hành vi của con, mà là giúp con vượt qua nỗi sợ.
=> Cha mẹ là người dẫn đường. Nếu cha mẹ không hiểu – thì con càng lạc lối.
=> OCD có thể kiểm soát – nếu đi đúng hướng.
📌 P2. Hậu quả nào cho đứa trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế nhưng không được trị liệu tâm lý đúng
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) không được xử lý đúng sẽ gây trượt dốc học tập, mất kết nối xã hội, suy giảm chất lượng sống nghiêm trọng. Nặng hơn, trẻ có thể bị trầm cảm, tự cô lập, thậm chí rối loạn lo âu phức hợp, giảm sự sự phát triển não bộ, cảm xúc, học tập và nhân cách lâu dài.. Đừng chờ đến khi con sụp đổ mới trị liệu.
1. Càng lúc càng phụ thuộc vào hành vi cưỡng chế thành thói quen
=> Trẻ không thể kiểm soát suy nghĩ ám ảnh, và càng làm nhiều hành vi cưỡng chế, não bộ càng ghi nhận chúng như một cách “giải thoát” tạm thời.
=> Hậu quả: Tăng thời gian – tăng tần suất cưỡng chế theo thời gian. Ví dụ: ban đầu rửa tay 5 lần → về sau cần rửa 15–20 lần mới “yên tâm”.
P/s: Không trị liệu đúng thì mỗi hành vi cưỡng chế lại giống như một sợi dây siết chặt não trẻ thêm mỗi ngày.
2. Rối loạn lo âu – ám ảnh – căng thẳng lâu dài thành tính cách con trẻ
=> Con Trẻ sống trong tâm thế sợ hãi thường trực sợ sai, sợ nhiễm bẩn, sợ bị phán xét, sợ mất người thân…Dần dần, trẻ hình thành tư duy né tránh, kiểm soát quá mức, hoặc tự trách bản thân mọi điều.
=> Hậu quả lâu dài ;à Trẻ dễ bị rối loạn lo âu lan tỏa. Có thể chuyển thành trầm cảm, hoảng loạn ở tuổi dậy thì nếu không can thiệp. Dễ rơi vào trạng thái tê liệt hành động: không dám làm gì vì sợ sai.
3. Suy giảm kết nối xã hội và bị cô lập
=> Trẻ OCD thường: Lặp lại hành vi “kỳ quặc” trong mắt bạn bè. Mất quá nhiều thời gian trong nghi thức riêng nên bỏ lỡ hoạt động chung Ngại tiếp xúc vì sợ bị chê cười hoặc đánh giá.
=> Hậu quả là Mất dần các mối quan hệ xã hội lành mạnh. Dễ bị trêu chọc, tẩy chay, bắt nạt học đường. Trẻ có nguy cơ tự tách mình – mất lòng tin – thu mình lâu dài.
4. Giảm hiệu quả học tập – tự ti về năng lực của bản thân
=> Nhiều trẻ OCD không thể làm bài kịp vì: Kiểm tra đi kiểm tra lại, viết – xóa – viết lại. Bị phân tâm bởi suy nghĩ ám ảnh nên khó tập trung.
=> Hậu quả Học lực suy giảm → bị so sánh – chê trách – mất động lực. Hình thành niềm tin sai lệch: “Con ngu”, “Con bất thường”, “Con không bằng ai”.
5. Mất kiểm soát cuộc sống về sau và ảnh hưởng đến người thân
=> Nếu không trị liệu, OCD tiến triển nặng trong tuổi trưởng thành. Người mắc OCD khó có cuộc sống bình thường và Không thể giữ công việc ổn định và Khó duy trì mối quan hệ lâu dài.
=> Có thể ép buộc người thân cùng thực hiện cưỡng chế với mình (ví dụ: yêu cầu bạn đời cũng phải sắp xếp đồ theo cách riêng).
6. Biến dạng nhân cách và hình thành rối loạn kép
=> OCD không được xử lý đúng lúc có thể dẫn đến rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (OCPD) – một dạng rối loạn cứng nhắc, kiểm soát thái quá, mất sự linh hoạt trong cảm xúc và ứng xử.
=> Từ OCD đơn thuần, trẻ có thể tiến triển thành: OCPD (rối loạn nhân cách cưỡng chế). Rối loạn lo âu tổng quát (GAD). Trầm cảm hoặc rối loạn ám ảnh ý nghĩ tự sát.
✅ Chuyên gia tâm lý cảnh báo mức độ của hậu quả không thể chủ quan:
=> Hành vi cưỡng chế trầm trọng hơn 🔴 Rất cao
=> Phát triển lo âu – trầm cảm 🔴 Nguy cơ cao
=> Cô lập xã hội, tự ti 🔴 Rất phổ biến
=> Học tập giảm sút, mất phương hướng 🔴 Gần như chắc chắn nếu không hỗ trợ
=> Nguy cơ rối loạn tâm thần thứ phát 🔴 Rất cao ở tuổi dậy thì
P/s: Phải trị liệu rối loạn ám ảnh càng sớm để có cơ hội phục hồi càng cao. Nếu bạn nghĩ con đang ‘lập dị’, ‘làm lố’, thì có thể bạn đã chậm mất 6 tháng điều trị rồi.”
P3. Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền cho biết các dấu hiệu nhận biết sớm rối loạn ám ảnh ở trẻ một cách chi tiết
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) ở trẻ em không dễ nhận ra nếu cha mẹ chỉ nhìn bề ngoài hành vi mà không hiểu bản chất sâu bên trong: đó là nỗi lo âm thầm chi phối tâm trí trẻ mỗi ngày. Dưới đây là các dấu hiệu nhận biết sớm mà chuyên gia Phạm Hiền thường chỉ ra để giúp phụ huynh phát hiện kịp thời:
1. Trẻ thường xuyên lặp đi lặp lại một hành động – không kiểm soát được
=> Biểu hiện ví dụ: Rửa tay nhiều lần đến mức khô da, nứt nẻ. Sắp xếp đồ vật theo “thứ tự hoàn hảo” – bị xê dịch là hoảng loạn. Chạm tay – gõ – đếm số lần nhất định để cảm thấy “ổn”.
=> Cần hiểu Đó là hành vi cưỡng chế – được trẻ lặp lại để xoa dịu cảm giác bất an hoặc sợ hãi vô hình.”
2. Hỏi đi hỏi lại cùng một câu – tìm sự xác nhận liên tục
=> Biểu hiện ví dụ: Con có làm sai không?”, “Mẹ có yêu con không?”, “Con có bẩn không?” – lặp lại liên tục dù đã được trả lời, trẻ vẫn tiếp tục hỏi chỉ để cảm thấy yên tâm.
=> Cần hiểu: Không phải vì trẻ không hiểu, mà vì não trẻ không dập được nỗi lo đang lặp đi trong đầu.
3. Có các “nghi thức kỳ lạ” khi làm việc gì đó
=> Biểu hiện ví dụ : Phải đóng mở cửa 3 lần mới bước ra ngoài. Trước khi ăn phải chạm tay vào ghế – bàn – tường theo đúng thứ tự. Khi mặc quần áo, mất 30 phút chỉ để gấp ống tay – chỉnh vạt áo.
=> Cần hiểu: Những “nghi thức” này không đơn thuần là thói quen, mà là biểu hiện OCD khi trẻ không thể dừng lại hoặc hoảng loạn nếu bị ngắt quãng.
4. Sợ hãi phi lý – không phù hợp tuổi
=> Biểu hiện ví dụ: Sợ nhiễm bệnh dù không tiếp xúc gì. Sợ mình sẽ gây ra điều tồi tệ (“Nếu con không rửa tay đủ 10 lần, bố sẽ chết.”). Sợ bẩn đến mức tránh ôm người thân, không dám bước vào phòng người khác.
=> Cần hiểu: Nhiều cha mẹ tưởng con ‘làm quá’, nhưng thật ra con đang bị ý nghĩ ám ảnh lặp lại chi phối hoàn toàn tâm trí.”
5. Mất nhiều thời gian làm việc đơn giản – vì bị “kẹt” trong ám ảnh
=> Biểu hiện ví dụ: Làm xong bài tập xong rồi vẫn phải xóa – viết lại vì “chữ chưa đẹp đều. Đi vệ sinh 30–60 phút chỉ vì cảm giác chưa sạch. Mặc quần áo 1 tiếng vì phải chỉnh – thay – kiểm tra liên tục.
=> Cần hiểu: Đây chính là OCD ở mức độ nhẹ và trung bình nên dễ bị bỏ qua
6. Hoảng loạn khi bị gián đoạn hành vi cưỡng chế
=> Biểu hiện ví dụ: Nếu bị ngăn chặn không cho lặp lại hành vi, trẻ có thể sẽ Gào khóc, giận dữ, đập phá. Lo âu, run rẩy, đau bụng hoặc nhức đầu. Quay lại làm lại từ đầu toàn bộ “nghi thức”.
=> Cần hiểu: Đây là cảnh báo OCD đã ăn sâu – cần can thiệp ngay.
7. Trẻ che giấu hành vi nhưng có dấu hiệu mệt mỏi, lo lắng, trầm ngâm
=> Dấu hiệu nội tâm: Trẻ càng lớn càng giấu hành vi cưỡng chế, vì sợ bị coi là kỳ quặc. Nhưng vẫn có biểu hiện Mất ngủ, đau đầu, sợ đi học, rút lui khỏi xã hội và Tự ti – dễ cáu gắt – hay xin lỗi vì lỗi không rõ ràng.
=> Cần hiểu: Nếu bạn thấy con hay giật mình, giấu tay, hay xoa tay khi nói chuyện, đừng bỏ qua – OCD đôi khi diễn ra âm thầm.”
8. Dấu hiệu nhận biết sớm OCD ở con trẻ
=> Hành vi lặp lại mất kiểm soát : Rửa tay/làm sạch quá mức -> Rửa tay 10–20 lần/ngày, gội đầu 1 tiếng, chà sát mạnh
=> Tìm xác nhận liên tục: Kiểm tra liên tục, Đóng cửa, khóa vòi nước, kiểm tra đèn hàng chục lần, Hỏi đi hỏi lại một việc
=> Thực hiện nghi thức cá nhân phức tạp : Trình tự “kỳ lạ” trước khi hành động, Chạm – đếm – xếp đồ vật theo trình tự “mới yên tâm”, lặp đi lặp lại làm gì đó
=> Cầu xin xác nhận Hỏi đi hỏi lại: “Con có làm sai không?”, “Mẹ có yêu con không?”
=> Sợ hãi phi lý Sợ làm sai gây hậu quả lớn
=> Lo âu khi thay đổi Bị hoảng loạn nếu đồ bị xê dịch, lệch khỏi vị trí đã quen, luôn sợ người này người kia bị tạn nạn hoặc chết
=> Mất thời gian quá mức cho việc đơn giản : Không dứt được việc nhỏ (Mất 1 tiếng để mặc quần áo vì cứ chỉnh lại mãi), Không thể dừng lại dù muốn
=> Phản ứng mạnh khi bị ngăn cản hành vi : Hoảng loạn, sụp đổ cảm xúc
=> Trầm ngâm, lo lắng, tự ti âm thầm: Rút lui, khó kết nối xã hội
P/s: Hãy ghi chép hành vi lặp lại của con mỗi ngày trong ít nhất 7–10 ngày. Nếu hành vi ảnh hưởng đến học tập, sinh hoạt, cảm xúc – đó là lúc cần can thiệp chuyên môn. Đừng trì hoãn. OCD càng để lâu càng khó chữa – can thiệp sớm có thể giúp con phục hồi tới 80–90%.”
9. Cảnh báo cần phát hiện sớm con trẻ có khuynh hướng OCD
Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền từng nhấn mạnh trong nhiều buổi trị liệu và tọa đàm rằng: Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) không xuất hiện đột ngột. Nó manh nha từ rất sớm và đôi khi từ 2–3 tuổi đã có những dấu hiệu đầu tiên nếu cha mẹ đủ tinh ý. Từ 2 tuổi: Có thể nhận diện những biểu hiện tiền OCD – nếu được đánh giá tâm lý đúng cách.
✅ Chuyên gia có thể cảnh báo sớm từ khi trẻ 2–3 tuổi, thông qua:
=> Quan sát hành vi lặp lại bất thường (xếp đồ, rửa tay, rút khăn giấy liên tục).
=> Phản ứng quá mức nếu trình tự bị sai lệch (ví dụ: bữa ăn phải đúng màu chén, đúng ghế…).
=> Sự lo lắng khi mọi thứ “không đúng chuẩn” theo cách nhìn của trẻ.
✅ Có thể phát hiện sớm ở 3 mốc quan trọng
=> 2–3 tuổi Xếp đồ vật lặp lại, phản ứng quá mức nếu bị xáo trộn, ám ảnh sự sạch sẽ ⚠️ Có thể đánh giá sớm khuynh hướng rối loạn
=> 4–6 tuổi Bắt đầu có “nghi thức riêng” khi ăn, mặc, chơi; thường xuyên hỏi xác nhận ⚠️ Nếu kéo dài >2 tuần => cảnh báo sớm OCD
=> 6–9 tuổi Hành vi cưỡng chế rõ nét: rửa tay, chạm – đếm, kiểm tra nhiều lần 🔴 Giai đoạn dễ phát triển thành OCD thật sự nếu không can thiệp, trị liệu
✅Cần chẩn đoán toàn diện cho con trẻ để đảm bảo đo lường mọi vấn đề và mọi mức độ
=> Cần phải Đánh giá tư duy – hành vi – cảm xúc – rối loạn tiềm ẩn trong giai đoạn từ 2 đến 6 tuổi
=> Cần phải Đo lường mức lo âu tiềm ẩn và mức độ linh hoạt trong suy nghĩ, hành vi.
=> Cha mẹ dùng nghĩ con ‘khó tính’, ‘cầu toàn’ vì thực chất con đang bị chi phối bởi nỗi ám ảnh, và nếu không được xử lý đúng, con sẽ bước vào OCD thực sự trước tuổi tiểu học.”
📌 P4. Tại sao các con trẻ nên được sàng lọc sớm khuynh hướng rối loạn ám ảnh và sai lầm của cha mẹ
Sai lầm lớn nhất của cha mẹ là chủ quan, vì thấy con sạch sẽ, gọn gàng, tỉ mỉ mà mừng — trong khi thực chất con đang bị cột chặt vào một vòng xoáy vô hình: nỗi sợ, sự ám ảnh và hành vi cưỡng chế.
1. Vì sao trẻ nên được sàng lọc sớm khuynh hướng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD)?
✅OCD là rối loạn có thể hình thành âm thầm từ sớm
=> Nhiều nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng: Những trẻ có khuynh hướng OCD thường bắt đầu có dấu hiệu từ 2–6 tuổi.
=> Nếu không được sàng lọc và trị liệu sớm, 90% sẽ phát triển thành rối loạn thật sự trong độ tuổi 7–12.
=> Càng lớn, não bộ càng “quen” với cơ chế ám ảnh – cưỡng chế, việc điều trị sẽ khó và dài hơn gấp nhiều lần.
✅Sàng lọc sớm giúp cha mẹ phân biệt rối loạn và tính cách
=> Một đứa trẻ cẩn thận hoặc cầu toàn bình thường vẫn có khả năng linh hoạt, thay đổi, thích nghi.
=> Còn trẻ có khuynh hướng OCD thì phản ứng tiêu cực nếu mọi thứ “không đúng chuẩn” theo cách con nghĩ.
P/s: Vì dụ đứa trẻ Cẩn thận (Xếp bút thẳng hàng rồi có thể đổi cách nếu mẹ bảo.) nhưng đứa trẻ có khuynh hướng OCD (Xếp đúng 5 cây màu đỏ, nếu lỡ có 1 cây lệch → con hoảng loạn, khóc, đập bàn, la hét)
✅Giúp con tránh được khủng hoảng tinh thần về sau
=> Nếu không sàng lọc trẻ sẽ dần tin rằng những ám ảnh đó là một phần của chính mình, và sống trong nỗi sợ dai dẳng.
=> Nguy cơ phát triển các rối loạn nặng hơn: lo âu lan tỏa, rối loạn nhân cách, trầm cảm.
2. Những sai lầm thường gặp của cha mẹ có con bị OCD
✅ Bỏ lỡ cơ hội vàng để trị liệu sớm
=> Nghĩ rằng con chỉ “cẩn thận” hoặc “cầu toàn””: Nhiều bố mẹ khen ngợi khi thấy con: Lau tay liên tục. Sắp xếp đồ chơi đúng vị trí, màu sắc. Phản ứng mạnh nếu đồ đạc bị thay đổi. Tuy niên chú ý Một đứa trẻ 3 tuổi đòi rửa tay 10 lần/ngày không phải là sạch sẽ – mà có thể là dấu hiệu sớm của rối loạn cưỡng chế.”
=> Cho rằng con chỉ “thích” hoặc “không thích”: Trẻ OCD không đơn thuần là sở thích – đó là “bắt buộc phải làm để giảm bớt nỗi sợ”. Nếu cha mẹ cưỡng lại hành vi ấy (ví dụ không cho con kiểm tra cửa, xếp đồ), con có thể Khóc toáng, giận dữ, đánh người, Rối loạn giấc ngủ, hoảng loạn, bứt rứt không yên.
=> Sai lầm lớn: ép con “chịu đựng đi”, vì nghĩ con đang làm quá. Điều này kích hoạt mạnh hơn phản ứng ám ảnh, khiến con thêm bất lực và rối loạn nặng hơn.
✅ So sánh và ép con thay đổi không đúng cách
=> Cách nói sai: Sao con cứ phải lau mãi vậy, em bé khác có cần đâu!” “Có thế mà cũng khóc, con yếu quá à?”
=> Những lời này khiến trẻ: Cảm thấy mình sai – mình bất thường – mình không được chấp nhận. Tăng phản ứng cưỡng chế để “kiểm soát” nỗi bất an. Tạo vết thương tâm lý kéo dài đến tuổi trưởng thành.
✅Không tin con cần trị liệu, mà nghĩ con chỉ bướng
=> Phụ huynh thường trì hoãn
=> Không cho đi sàng lọc tâm lý.
=> Sợ con “mang tiếng bị bệnh”.
P/s: Trong khi thực tế:Trị liệu càng sớm càng dễ phục hồi. OCD không chẩn đoán = không tự biến mất – mà chuyển hóa thành các hình thái rối loạn khác. Vì vậy chuyên gia Pham Hiền thường cảnh báo , Nếu bạn thấy con làm gì đó nhiều hơn một lần mỗi ngày, vì một lý do con không thể giải thích – đừng chờ đến khi hành vi đó trở thành nghi thức rối loạn và Hãy sàng lọc. Hãy bảo vệ não con khi còn đang mềm.”
✅ Cho rằng con “sẽ tự hết” hoặc “lớn sẽ khác”
=> Sai lầm: “Trẻ con thì ai mà chẳng có chút kỳ lạ.” “Kệ con đi, sau này lớn sẽ thay đổi.” “Nó chỉ hơi cầu toàn thôi, không có gì đáng lo.”
=> Hậu quả:Rối loạn ám ảnh cưỡng chế không tự mất đi mà ăn sâu vào cấu trúc tư duy và hành vi. Đứa trẻ càng lớn càng khó trị liệu vì Hành vi cưỡng chế trở thành thói quen cố định, Tâm trí quen với sự lo lắng thường trực. Con có nguy cơ cao phát triển rối loạn lo âu toàn thể, rối loạn nhân cách ám ảnh, trầm cảm, ám ảnh xã hội…
P/s: Càng chờ đợi, bố mẹ đang ‘nhốt’ con trong một mê cung ám ảnh mà càng lớn con càng không tìm được lối ra.
✅ Lầm tưởng đó là “tính cách đặc biệt” nên tôn trọng
=> Sai lầm: “Con tôi nó tỉ mỉ lắm, sạch sẽ kinh khủng luôn, “Nó phải đúng quy trình của nó mới yên tâm được, “Con nó kỹ tính thôi, mình không nên can thiệp quá.”
=> Hậu quả: Trẻ được nuôi lớn cùng nỗi sợ của chính mình mà không được gỡ rối, Con tưởng đó là một phần nhân cách bắt buộc phải giữ, dù mệt mỏi và khổ sở bên trong, Trẻ bị gắn mác “khó tính”, “khó chịu”, dễ bị cô lập xã hội khi lớn lên.
P/s: Yêu con không phải là để yên cho con sống với nỗi sợ. Yêu con là nhìn ra nỗi sợ đó và giúp con vượt qua.
✅ Sợ mang tiếng “con bị bệnh tâm lý” nên giấu và né
=> Sai lầm: “Nó bị gì đâu, tôi thấy bình thường.”, “Nói ra người ta lại nghĩ con tôi có vấn đề.”, “Tôi sợ cháu bị kỳ thị nếu ai biết nó trị liệu tâm lý.”
=> Hậu quả: Trẻ bị bỏ lỡ giai đoạn vàng để can thiệp, từ đó mất đi cơ hội phục hồi nhanh và dễ dàng, Gia đình mâu thuẫn nội bộ, vì mỗi người có cách nhìn khác nhau về hành vi của con, Đứa trẻ lớn lên trong sự dằn vặt và cô đơn, vừa muốn được giúp đỡ, vừa cảm thấy bản thân có gì sai mà không dám nói.
P/s: Một phụ huynh từng chia sẻ với chuyên gia: “Nếu tôi biết điều trị tâm lý không đáng sợ, thì tôi đã không để con mất 3 năm sống cùng cơn ám ảnh rửa tay 20 lần mỗi ngày…”
✅ Tự chữa bằng cách la mắng – ép con nhịn – trấn áp hành vi
=> Sai lầm: “Nó mà cứ kiểm tra cửa hoài là tôi la cho im luôn.”, “Không cho rửa tay nữa, phải cứng rắn vào!”, “Nó làm bậy vậy là do hư chứ có bệnh gì!”
=> Hậu quả: Trẻ không được gỡ bỏ ám ảnh mà chỉ bị ép nín lại – làm tổn thương tâm lý nặng nề.Gây phản ứng ngược: trẻ bùng nổ cảm xúc, rối loạn hành vi, bất ổn cảm xúc. Trẻ học cách giấu hành vi cưỡng chế → khiến bố mẹ tưởng con hết rồi → trong khi con đang khổ sở hơn vì phải gồng gánh cả nỗi sợ lẫn sự ép buộc.
P/s: OCD không phải chuyện của ý chí. Không ai muốn rửa tay 20 lần, kiểm tra 10 cái chốt cửa. Đó là nỗi sợ ép con phải làm. Cấm con không khác gì bỏ mặc con trong biển lo âu.”
=> Sai lầm: Chỉ đi khám nội thần kinh, kê thuốc, Gửi con đến giáo viên, huấn luyện viên để “uốn nắn”, Tự xem mạng rồi thử mẹo dân gian, trò chơi, kỷ luật…
=> Hậu quả: Con bị chẩn đoán sai hoặc trị liệu sai hướng, thậm chí dùng thuốc không cần thiết. Thời gian can thiệp bị trễ → hiệu quả thấp → bố mẹ mất niềm tin → bỏ cuộc. Con có thể chuyển thành OCD mãn tính hoặc phức tạp, rất khó phục hồi hoàn toàn.
✅ Tóm tắt những sai lầm lớn nhất của cha mẹ khi không trị liệu sớm:
=> SAI LẦM Cho rằng con sẽ tự khỏi HẬU QUẢ Mất thời điểm vàng can thiệp, con phát triển thành OCD thực sự
=> SAI LẦM Nhầm là tính cách tốt HẬU QUẢ Củng cố sai lệch hành vi, khiến con sống mãi với rối loạn
=> SAI LẦM Sợ xã hội đánh giá HẬU QUẢ Giấu bệnh, để con sống âm thầm trong đau khổ
=> SAI LẦM Trấn áp hoặc mắng HẬU QUẢ Tổn thương cảm xúc, rối loạn tâm lý nặng hơn
=> SAI LẦM Không tìm đúng chuyên gia HẬU QUẢ Trị liệu sai cách, làm trầm trọng tình trạng
P/s: “Một hành vi kỳ lạ lặp đi lặp lại không phải là tính cách – nó là tiếng kêu cứu của một đứa trẻ đang mắc kẹt. Hãy đưa tay ra đúng lúc, đừng chờ khi con gào thét trong câm lặng.”
📌 P5. Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền chỉ ra những sai lầm thường gặp nhất của cha mẹ khi trị liệu sai hoặc trị liệu không tới nơi tới chốn khiến con không thể phục hồi thậm chí nặng hơn
Việc trị liệu cho trẻ có rối loạn tâm lý như rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD), ADHD, hoặc các vấn đề cảm xúc – hành vi khác không đơn giản chỉ là cho con đến gặp chuyên gia một vài buổi rồi chờ con thay đổi. Theo chuyên gia Phạm Hiền, nhiều cha mẹ vô tình làm sai ngay trong quá trình trị liệu, dẫn đến việc:
=> Con Trẻ không cải thiện hoặc cải thiện chậm
=> Tái phát nặng hơn
=> Hoặc phát sinh thêm các rối loạn mới như trầm cảm, né tránh xã hội, chống đối, tự ti kéo dài.
1. Tư duy “giao con cho chuyên gia – chờ kết quả”
=> Sai từ quan điểm: Tôi mang con tới rồi, chuyên gia lo liệu. Tôi có mặt là tốt rồi chứ gì nữa.
=> Vì sao sai: Cha mẹ là người ảnh hưởng lớn nhất đến tiến trình tâm lý của trẻ, thậm chí còn tác động hơn cả chuyên gia. Nếu cha mẹ không thay đổi cách tương tác, cách giao tiếp và nuôi dạy con tại nhà thì Mọi nỗ lực trị liệu chuyên môn sẽ bị triệt tiêu hoàn toàn.
P/s: Không thể gỡ rối cho con nếu cha mẹ giữ nguyên cách cư xử từng khiến con rối loạn.”
1. Không theo đủ liệu trình – bỏ dở giữa chừng
=> Quan điểm Nóng vội: Đi vài buổi rồi thấy không hiệu quả lắm.” hoặc “Tốn tiền quá mà con cũng không khác mấy.” hoặc “Con đỡ rồi nên không cần theo nữa.”
=> Hậu quả: Trị liệu tâm lý không giống uống thuốc cảm cúm, không hiệu quả ngay sau 1-2 tuần. Phải nhớ rằng Liệu trình thường kéo dài từ 2 đến 6 tháng, thậm chí hơn, tùy mức độ. Nếu Bỏ giữa chừng thì não bộ trẻ chưa học được cách mới để phản ứng lành mạnh, dẫn đến tái phát nặng hơn.
P/s: Trẻ OCD 10 tuổi sau 3 buổi trị liệu bắt đầu giảm hành vi kiểm tra khóa cửa, nhưng do mẹ dừng ngang vì “đỡ rồi” và 6 tháng sau con quay lại với triệu chứng rửa tay và giật tóc, nặng hơn nhiều thậm chí sang rối loạn chống đối
2. Tự ý can thiệp thêm hoặc phản can thiệp
=> Quan điểm:“Chuyên gia bảo nhẹ nhàng nhưng tôi thấy phải nghiêm khắc.” hoặc “Tôi vẫn la con nếu nó làm bậy, chứ không để con quen thói.” hoặc “Chuyên gia nói giảm ép buộc nhưng tôi thấy cần bắt nó phải thay đổi.”
=> Vì sao nguy hiểm: Chuyên gia xây liệu trình dựa trên từng giai đoạn phục hồi tâm lý, có mức độ tăng dần, an toàn. Cha mẹ tự “chen ngang” bằng cách mắng – ép – sửa hành vi theo ý mình → làm hỏng toàn bộ lộ trình. Trẻ bị rối loạn thông điệp: chuyên gia nói một đằng, bố mẹ làm một nẻo → trẻ mất niềm tin và mất định hướng.
P/s: Trị liệu tâm lý không phải là cuộc chiến giữa bố mẹ và con. Đừng biến mình thành ‘thế lực phản trị liệu’.
3. Thiếu sự đồng thuận giữa cha và mẹ
=> Quan điểm: “Mẹ cho con đi trị liệu, bố phản đối” hoặc “Bố nghiêm khắc – mẹ chiều.” hoặc “Một người theo sát liệu trình – người kia phá ngầm.”
=> Hậu quả: Trẻ sống trong môi trường hai chiều ngược nhau, không ổn định, gây căng thẳng tâm lý liên tục. Một bên hỗ trợ – một bên phủ định → trẻ hoang mang, mất phương hướng, dễ bùng phát cảm xúc hoặc rút lui. Liệu trình bị đứt gãy vì mâu thuẫn nội bộ phụ huynh.
P/s: Theo chuyên gia Phạm Hiền: Gần 60% trường hợp trị liệu thất bại hoặc kéo dài quá mức là do cha mẹ không thống nhất phương pháp và quan điểm trong suốt quá trình.
4. Không học kỹ năng cùng con – hoặc chỉ chăm chăm sửa con
=> Quan điểm: “Tôi thấy con sai nên tôi chỉnh. Tôi không cần học thêm gì cả.” hoặc “Trị liệu là việc của nó, tôi vẫn sống như thường.”
=> Vì sao nguy hiểm: Nhiều phụ huynh không hiểu rằng Con cần môi trường hỗ trợ an toàn, không phải là “bài kiểm tra đạo đức”. Nếu cha mẹ không học cách thấu hiểu và phản hồi đúng, con sẽ bị tổn thương ngay cả khi đã tiến bộ nên Không học → không hiểu tiến trình → đánh giá sai → dễ nản, bỏ cuộc, hoặc phản ứng sai cách khi con có biểu hiện tái phát.
P/s: Chuyên gia Phạm Hiền: “Con đang học cách chữa lành tổn thương. Nếu cha mẹ không học cách bớt làm tổn thương, trị liệu sẽ là một vòng lặp vô tận.”
5. Sai lầm của cha mẹ ngay khi Khám chẩn đoán bác sỹ tâm lý và chỉ dùng thuốc mà không trị liệu tâm lý cho con
Đây là một sai lầm nghiêm trọng và phổ biến mà chuyên gia đã nhiều lần cảnh báo:Một số trẻ uống thuốc ADHD suốt 3 năm nhưng chưa từng được trị liệu hành vi – đến khi ngừng thuốc thì bộc phát rối loạn gấp đôi, kèm theo chống đối, cơn giận không kiểm soát. Chuyên gia Phạm Hiền thường hay nói với các cha mẹ rằng “Con bạn đang bị thương trong tâm lý, bạn lại chỉ dán băng keo ngoài da.”
✅ Sai lầm: Chỉ khám – chẩn đoán – uống thuốc, mà không trị liệu tâm lý cho con
=> Với câu nói “Khám rồi – uống thuốc là xong” là tư duy khiến rất nhiều trẻ rối loạn tâm lý trở nên nặng hơn, lệ thuộc hơn và khủng hoảng sâu hơn.”
=> Ví dụ nhiều cha mẹ chỉ đơn giản là “Bác sĩ kê thuốc rồi, con uống sẽ đỡ.” hoặc “Con bị bệnh thì cứ điều trị y khoa thôi, trị liệu tâm lý làm gì cho mất thời gian.” hoặc “Trẻ con lớn rồi sẽ tự hết.” hoặc “Không muốn con mang tiếng là có vấn đề tâm lý.”
✅ Hậu quả nghiêm trọng khi chỉ điều trị bằng thuốc: Chỉ kiểm soát triệu chứng, không chữa tận gốc.
Thuốc tác động lên hóa học não, giúp ổn định tạm thời các biểu hiện (lo âu, tăng động, ám ảnh, buồn bã…). Nhưng gốc rễ của rối loạn nằm ở tâm lý, cảm xúc, nhận thức, kỹ năng đối mặt với áp lực, tổn thương chưa được tháo gỡ. Từ đó con trẻ Dễ tái phát khi ngừng thuốc và Không phát triển kỹ năng đối phó lành mạnh, dễ sụp đổ khi gặp biến cố.
Nguy cơ lệ thuộc thuốc – tăng liều – chai thuốc. Nếu chỉ uống thuốc nên não trẻ có thể lệ thuộc vào tác động hóa học. Nhiều trẻ sau 1-2 năm phải tăng liều, hoặc không còn đáp ứng thuốc ban đầu thì Tình trạng dễ xảy ra với trẻ bị: OCD (rối loạn ám ảnh cưỡng chế), ADHD (tăng động giảm chú ý), Rối loạn lo âu / trầm cảm nhẹ
Bỏ lỡ “giai đoạn vàng” can thiệp hành vi và phát triển não bộ: Từ 4 – 12 tuổi là giai đoạn vàng để nắn chỉnh nhận thức, hành vi, kỹ năng giao tiếp – cảm xúc – tự kiểm soát. Nếu chỉ dùng thuốc, không kết hợp trị liệu nên trẻ không được học kỹ năng điều tiết cảm xúc, quản lý hành vi, tự kiểm soát xung động. Đến tuổi dậy thì, các vấn đề này chuyển sang dạng phức tạp hơn, như chống đối, rối loạn hành vi, trầm cảm tuổi teen.
Con cảm thấy mình là “người bệnh”, không được chữa lành cảm xúc. Trẻ không được nghe – không được chia sẻ – không được hướng dẫn kỹ năng nên Cảm thấy: “Mình bị hỏng rồi nên phải uống thuốc.” hoặc “Mọi người chỉ muốn mình bình thường để đỡ mệt.” từ đó Dẫn tới mặc cảm, tổn thương lòng tin, khép kín hoặc phản kháng.
P/s: “Rối loạn tâm lý là sự kêu cứu thầm lặng. Đừng chỉ bịt miệng nó bằng thuốc.”
✅ Vậy phải làm sao là đúng?
Khám bác sĩ để đánh giá y khoa tổng thể -> Đảm bảo trẻ không có vấn đề thần kinh – thể chất đặc biệt cần can thiệp y tế
Nếu bác sĩ kê thuốc, phải hỏi rõ: Có cần trị liệu tâm lý kết hợp không? -> Nhiều bác sĩ tâm thần cũng khuyến nghị song hành trị liệu tâm lý
Liên hệ chuyên gia trị liệu tâm lý uy tín cho con song song với dùng thuốc -> Để tháo gỡ nguyên nhân tâm lý, giúp trẻ học kỹ năng, giảm dần lệ thuộc thuốc
Cha mẹ đồng hành, học kỹ năng giao tiếp đúng – phản hồi đúng – hỗ trợ đúng -> Trẻ mới thực sự được chữa lành từ bên trong
P/s: Trích chia sẻ từ một phụ huynh sau khi thay đổi hướng điều trị: “Tôi từng cho con uống thuốc gần 1 năm theo bác sĩ, chỉ mong nó bớt rối loạn lo âu. Nhưng càng ngày con càng xa cách, không dám chia sẻ, thậm chí có lúc nói muốn biến mất. Nhờ người quen giới thiệu, tôi đưa con đến trung tâm của cô Phạm Hiền để trị liệu tâm lý và Sau 2 tháng, con dần dám kể chuyện, học được cách nhận diện nỗi sợ, biết tự trấn an và giờ gần như không cần thuốc nữa. Tôi đã sai vì nghĩ thuốc là đủ nên rất hối hận vì đã không giúp con đúng trong giai đoạn vàng tốt nhất.”
6. Những việc cha mẹ nên làm để tránh trị liệu sai:
Theo đúng lộ trình chuyên gia đưa ra -> Đừng đốt cháy giai đoạn hay bỏ giữa chừng
Tham gia trị liệu cùng con -> Ít nhất nên có các buổi song hành với chuyên gia
Tự học kỹ năng giao tiếp – ứng xử với trẻ rối loạn -> Có thể thông qua lớp cha mẹ đồng hành, sách chuyên môn, hoặc tư vấn cá nhân
Đảm bảo sự thống nhất giữa các thành viên trong gia đình -> Cùng hỗ trợ và cùng tuân thủ phương pháp
Tin tưởng chuyên gia – không phản trị liệu -> Đừng mâu thuẫn với hướng dẫn của người đang trực tiếp trị liệu
P/s: “Trị liệu tâm lý không phải là ‘giao việc’ cho chuyên gia. Nó là một hành trình cha mẹ phải đi cùng con – kiên nhẫn, hiểu biết và đúng cách. Trị sai một bước, con lùi lại cả quãng dài.” phụ huynh phản hồi Chuyên gia Phạm Hiền Test chẩn đoán con bị tâm lý ám ảnh khác như thế nào
📌 P6. Phản hồi của phụ huynh sau khi con được chuyên gia tâm lý Phạm Hiền trực tiếp test – chẩn đoán rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD)
1. Khác biệt ngay từ cách test – khám: Không đọc kết luận, mà giúp cha mẹ “nhìn thấy” tận gốc
Bác Phạm Hiền không nói con bị bệnh, cô cho tôi nhìn thấy vì sao con lại như vậy trong từng biểu hiện rối loạn của con.” nên tôi không bị “sốc” mà cảm thấy mình hiểu được lý do đằng sau từng biểu hiện của con một cách có căn cứ và rõ nét
Bác chuyên gia Phạm Hiền Không vội gắn nhãn rối loạn, mà cho cha mẹ thấy mức độ ám ảnh – lo âu của con, từ đó giúp tôi dễ chấp nhận và thay đổi cách đồng hành cùng con
“Tôi đi ba nơi, nơi thì bảo con chỉ hơi kỹ tính, nơi thì bảo con bị OCD cấp độ 2. Nhưng bác chuyên gia Phạm Hiền là người duy nhất cho tôi thấy tại sao con như vậy, và làm sao để con thoát ra.”
2. Khác biệt ở việc phân tích sai lầm nuôi dạy gây kích hoạt tâm lý ám ảnh
“Tôi từng cho là con mình sạch sẽ, ngăn nắp. Chuyên gia Phạm Hiền thì vạch ra từng cách phản ứng sai của tôi khiến con ‘bắt buộc phải như vậy’ mới được yêu thương.”
Nhiều cha mẹ cũng như tôi khi gặp chuyên gia sẽ luôn ngỡ ngàng khi nhận ra chính mình là người đã góp phần hình thành khuynh hướng OCD ở con. Bác ấy thẳng thắn đến mức tôi như bị thúc ép việc phải tự thay đổi để giúp con, chứ đừng phụ thuộc vào chuyên gia hay bác sỹ tâm lý nào cả.
Bác Phạm Hiền không chỉ chẩn đoán cho con, mà đánh giá cả hệ quy chiếu trong cách nuôi dạy của cha mẹ để từ đó hướng dẫn thay đổi đồng bộ.
3. Khác biệt ở định hướng trị liệu – không lệ thuộc thuốc
“Tôi từng đưa con đến bác sĩ và được kê thuốc an thần nhẹ. Nhưng đến với cô Hiền, con được gỡ từng nút lo âu mà không cần dùng thuốc.”
Chuyên gia Phạm Hiền chủ trương trị liệu tâm lý hành vi – cảm xúc – nhận thức, thay vì dùng thuốc sớm (trừ khi đã có kết luận tâm thần nghiêm trọng cần can thiệp y khoa). Nên Trị liệu của cô giúp trẻ: Tự nhận diện được sự lo âu trong đầu, Học cách phân tách giữa “suy nghĩ ám ảnh” và “sự thật”, Rèn luyện hành vi thay thế (CBT – hành vi nhận thức)Giảm dần các “nghi thức bắt buộc”
Tôi đã định cho con uống thuốc theo bác sĩ tâm thần. Nhưng sau khi gặp cô Hiền, tôi quyết định chờ thêm 3 tháng trị liệu. Và giờ con tôi đã giảm nghi thức bắt buộc 70%, chưa cần đụng đến viên thuốc nào.”
4. Phản hồi từ phụ huynh sau khi test/chẩn đoán với chuyên gia Phạm Hiền
Cách tiếp cận: Gần gũi, không gắn nhãn bệnh, đánh giá kỹ tâm lý và hoàn cảnh gia đình
Cách chẩn đoán : Không chỉ nhìn hành vi – mà tìm tận gốc nguyên nhân cảm xúc và môi trường
Cách hướng dẫn cha mẹ: Phân tích sai lầm nuôi dạy, hướng dẫn cách đồng hành đúng
Phương pháp trị liệu: Tâm lý – hành vi – nhận thức, không ưu tiên dùng thuốc sớm
📌 P7. Phụ huynh nói về sự trị liệu tâm lý ám ảnh khác biệt và toàn diện cho con trẻ bị rối loạn ám ảnh như thế nào
Nhiều phụ huynh đã trải qua hành trình trị liệu cho con bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) với chuyên gia Phạm Hiền đã thẳng thắn chia sẻ rằng “Trị liệu tâm lý đúng – đủ – toàn diện là bước ngoặt giúp con không còn sống trong nỗi sợ bên trong chính mình.”
1. Không đơn thuần “làm dịu” hành vi — mà gỡ từng nút cảm xúc bên trong
“Tôi từng cố dạy con bỏ thói quen kiểm tra cửa 20 lần. Nhưng chỉ khi vào trị liệu với cô Hiền, con mới kể: ‘Nếu không kiểm tra, con sợ nhà cháy – mọi người chết’. Đó không phải thói quen, mà là nỗi sợ ám ảnh chưa ai hiểu.”
Điểm khác biệt: Không sửa hành vi bằng cách “ép bỏ”, “mắng ngăn”. Mà gỡ từ cảm xúc gốc rễ bên trong – nơi trẻ bị ám ảnh về trách nhiệm, nguy hiểm, sự sai lệch, cái xấu… Con được lắng nghe và được dạy để có tư duy diễn đạt nỗi sợ sâu kín thay vì bị bắt dừng lại bề ngoài.
2. Con được huấn luyện lại tư duy để đối thoại với chính nỗi ám ảnh
“Con tôi từng gào khóc vì khăn trải bàn không để thẳng. Cô Phạm Hiền không chỉnh con, mà dạy con: ‘Có gì xảy ra nếu lệch một chút?’ Dần dần, con tôi biết tự hỏi lại chính mình trước khi hoảng loạn.”
Khác biệt Trị liệu toàn diện bao gồm Nhận diện suy nghĩ ám ảnh và tư duy để Đối thoại lại với sự thật, dùng lý chí để Học “sống chung” với sự không hoàn hảo – giảm dần nhu cầu kiểm soát.
3. Khác biệt: Phụ huynh cũng được trị liệu đồng hành – không chỉ mỗi đứa trẻ
“Tôi được yêu cầu ghi nhật ký cảm xúc của con. Và cả cảm xúc của mình. Cô Hiền nói: Muốn con hết ám ảnh, bố mẹ cần ngừng vô thức tạo áp lực vô hình.”
Khác biệt ở Điểm toàn diện: Trị liệu không tách rời trẻ khỏi môi trường sống. Phụ huynh phải cùng hiểu – cùng đổi vai trò – cùng học cách phản ứng lại với OCD. Thường có các buổi trị liệu gia đình, hướng dẫn cách nuôi dạy và ngôn ngữ giao tiếp mới với trẻ OCD.
4. Có chiến lược xử lý từng tầng OCD – không “rập khuôn”
Con tôi không phải chỉ rửa tay, con còn nghĩ nếu làm sai thì người khác bị hại. Bác Phạm Hiền chia OCD con thành 3 tầng – và mỗi tầng có kế hoạch riêng.”
Điểm khác biệt lớn: Không dùng 1 liệu trình cho mọi trẻ OCD mà phân tách từng tầng gồm Tầng hành vi (nghi thức), Tầng cảm xúc (lo âu, tội lỗi), Tầng nhận thức (niềm tin sai lệch). Mỗi tầng có bài tập riêng, cách tiếp cận riêng, và mục tiêu cụ thể.
P/s: Phản hồi của phụ huynh “Con tôi mới trị liệu nên vẫn còn OCD, nhưng khác lắm. Giờ con biết khi nào mình bị ám ảnh, biết thở để thoát ra, biết xin lỗi khi bị cuốn vào nghi thức.” hoặc “Tôi từng nghĩ trị liệu tâm lý là tốn kém và vô hình. Nhưng nếu không trị liệu đúng, thì 5 năm sau tôi vẫn sẽ thấy con rửa tay đến nứt da – và tôi chẳng hiểu vì sao.” hoặc “ Con tôi đã bị lỏ lỡ giai đoạn vàng nên chuyên gia Phạm Hiền không giúp con bỏ OCD. Cô giúp con sống bình an với chính mình, và học cách buông từng sợi dây sợ hãi. Đó mới là điều kỳ diệu để con tự chữa lành OCD.”
✅ Sự trị liệu tâm lý ám ảnh toàn diện mà phụ huynh đánh giá cao từ chuyên gia Phạm Hiền có 4 đặc điểm:
Gỡ tận gốc: Tập trung vào tư duy – cảm xúc – niềm tin sai lệch bên trong trẻ, không chỉ hành vi.
Dạy con đối thoại nội tâm : Sử dụng kỹ thuật tư duy nhận thức và ý chí để trẻ không bị ám ảnh kiểm soát.
Trị liệu đồng thời cả gia đình : Cha mẹ được đồng hành, điều chỉnh thói quen phản ứng gây kích hoạt.
Cá nhân hóa theo tầng OCD: Mỗi trẻ có lộ trình khác nhau, có thể kéo dài 2–6 tháng tùy mức độ.
5. Có Cảnh báo gì đến bố mẹ khi đến chẩn đoán hoặc trị liệu cho con bị rối loạn ám ảnh
Chuyên gia Phạm Hiền thường cảnh báo rất rõ ràng và thẳng thắn với các bậc phụ huynh ngay từ buổi chẩn đoán ban đầu hoặc trong các phiên trị liệu cho con bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD). Các cảnh báo này không phải để tạo áp lực, mà để giúp cha mẹ tỉnh táo – tránh sai lầm – hiểu đúng hành trình trị liệu. Dưới đây là những cảnh báo nổi bật mà chuyên gia Phạm Hiền thường chia sẻ:
Đừng nhầm OCD là thói quen – càng ép bỏ, con càng tổn thương: Nhiều cha mẹ nghĩ rằng con chỉ đang “cầu toàn”, “quá thích sạch”, “quá kỹ tính”, nên tìm cách ép bỏ. Nhưng thực chất, trẻ OCD bị ám ảnh bởi nỗi sợ vô lý, nếu bị ép, trẻ không chỉ phản kháng mà còn phát triển thêm các nghi thức mới để “chống lại sự cưỡng ép”. Nên việc “Ép con bỏ rửa tay mà không gỡ nỗi sợ vi trùng = tạo thêm 1 nghi thức khác: ví dụ con sẽ bắt đầu tẩy quần áo, lau nhà 20 lần.”
OCD không phải là một trò chơi kiểm tra sự kiên nhẫn của cha mẹ – mà là cuộc chiến sinh tồn trong tâm trí con: Nhiều phụ huynh mất kiên nhẫn khi con liên tục lặp lại một hành vi kỳ quặc như đếm bước, kiểm tra ổ điện, sắp xếp đồ vật. Nên Đừng mắng con là “làm trò”, “diễn”, “vẽ chuyện” vì Đằng sau những hành vi ấy là nỗi sợ hãi thực sự, thường đi kèm cảm giác tội lỗi hoặc tưởng tượng tiêu cực và Nếu không được trị liệu đúng, trẻ sẽ mất kết nối với thực tế, giảm khả năng kiểm soát cảm xúc và hành vi.
Sai lầm lớn nhất là chỉ dùng thuốc – bỏ qua trị liệu tâm lý: Một số bác sĩ kê đơn thuốc kháng lo âu – trầm cảm để làm dịu triệu chứng OCD. Nhưng nếu không đi kèm trị liệu tâm lý nhận thức – hành vi (CBT) thì: Trẻ chỉ được làm dịu tạm thời nhưng nỗi ám ảnh gốc vẫn còn nguyên – dễ tái phát, hoặc chuyển hóa thành dạng khác.Vì vậy “Không ai trị OCD bằng thuốc đơn thuần. Điều con cần là học cách đối thoại và chiến thắng chính nỗi sợ sai lệch trong đầu mình.”
Phụ huynh là ‘người tiếp tay vô thức’ cho sự lớn mạnh của OCD nếu không hiểu: Phụ huynh thường vô tình “giúp con làm nghi thức” vì thương hoặc để yên chuyện nên Hành động đó sẽ củng cố vòng lặp OCD, khiến trẻ tin rằng nếu không làm đúng nghi thức, chuyện xấu sẽ xảy ra từ đó trẻ nghiện kiểm soát mọi thứ quanh mình để giảm sợ hãi. Vì vậy chuyên gia luôn yêu cầu phụ huynh học kỹ thuật “dừng hỗ trợ nghi thức” đúng cách.
Nếu để kéo dài, OCD không chỉ ảnh hưởng học tập – mà còn tạo nền tảng cho lo âu, trầm cảm tuổi vị thành niên: Nhiều cha mẹ cho rằng “lớn lên con sẽ tự bớt”, hoặc “cứ học tốt là được”. Cảnh báo cực kỳ nghiêm trọng: Không trị liệu sớm từ đó trẻ có nguy cơ trượt sang trầm cảm, tự làm hại bản thân, hoặc hoang tưởng nặng. Đặc biệt ở tuổi dậy thì, mức độ OCD tăng vọt nếu không được can thiệp sớm.
P/s: Tôi từng gặp những em 15 tuổi viết nhật ký nói rằng: Nếu hôm nay không lau phòng 5 lần thì ba mẹ sẽ gặp tai nạn xe – và sống trong nỗi dằn vặt triền miên.”
Trị liệu tâm lý không thể nhanh – và càng không theo ý cha mẹ – mà phải theo nhịp chữa lành của chính đứa trẻ: Cha mẹ hay nôn nóng: “Sao sau 1 tháng con vẫn rửa tay?” hoặc “Tôi đưa đi mấy buổi rồi mà con vẫn còn lặp hành vi!”. Cảnh báo của chuyên gia rằng OCD là một rối loạn nội tâm phức tạp, thường cần ít nhất 3–6 tháng trị liệu liên tục và đúng cách. Không thể “mài hành vi” mà hết bệnh. Trị liệu đúng là giúp con từng bước gỡ, từng bước nhận thức, từng bước thay đổi. Đương nhiên OCD không đến trong một ngày – và cũng không thể rời đi trong một tuần. Hành trình này cần sự đồng hành tỉnh táo và kiên nhẫn từ cha mẹ.”
📌 P8. Cụ thể hơn về Quan điểm chuyên gia khác gì trong chẩn đoán và trị liệu cho con trẻ bị ám ảnh
Quan điểm của chuyên gia Phạm Hiền trong chẩn đoán và trị liệu cho trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) khác biệt rõ ràng so với cách tiếp cận truyền thống ở một số nơi hiện nay. Những khác biệt này nằm ở tư duy chẩn đoán – cách nhìn trẻ – mô hình trị liệu – vai trò của cha mẹ. Dưới đây là những điểm đáng chú ý trong quan điểm của chuyên gia:
1. Không chẩn đoán chỉ dựa trên hành vi – mà dựa vào hệ thống phân tích tâm lý nội tâm
=> Khác biệt truyền thống:Một số nơi chỉ ghi nhận các hành vi: rửa tay, kiểm tra, sắp xếp, né tránh, v.v. Sau đó gán nhãn: OCD và kê đơn thuốc.
=> Quan điểm của chuyên gia tâm lý Phạm Hiền: Không dừng ở hành vi, mà đi sâu phân tích mà phải đi vào Nguồn gốc nỗi sợ (bắt đầu từ đâu?) và Cơ chế tâm lý gây ra sự cưỡng chế (niềm tin sai lệch nào?) cùng với Biểu hiện ám ảnh tiềm ẩn chưa lộ ra (vòng lặp ngầm).
P/s: Ví dụ: Một bé không cho ai chạm vào bút là do sợ nếu bút bị lệch → bài sẽ sai → bị phạt → người thân gặp chuyện xấu → Hành vi rất nhỏ, nhưng bên trong là cả một chuỗi logic méo mó của ám ảnh – điều mà nhiều nơi bỏ sót.
2. Không ‘test nhanh’ – mà đánh giá toàn diện qua 3 lớp phân tích sàng lọc tâm lý
=> Lớp nhận thức ám ảnh (nỗi sợ, kỳ vọng tiêu cực, ám thị bên trong)
=> Lớp cưỡng chế hành vi (lặp lại, nghi thức, né tránh)
=> Lớp tâm lý phòng vệ (cơ chế che giấu, kìm nén, phản ứng lặp lại khi bị ngăn cản)
P/s: Từ đó Không chỉ xác định trẻ có mắc OCD không, mà còn xác định mức độ, dạng rối loạn, chu kỳ tái phát, nguy cơ đi kèm như trầm cảm – rối loạn lo âu – ám ảnh xã hội.
3. Trị liệu bằng cách “thay đổi cấu trúc niềm tin sai lệch trong tâm trí trẻ” – chứ không chỉ ngắt hành vi lặp
=> Trị liệu truyền thống (ở nhiều nơi): Áp dụng trị liệu hành vi nhận thức CBT 1 chiều. “Nếu con sợ bẩn → dạy con tiếp xúc với bẩn dần dần.”
=> Chuyên gia Phạm Hiền: Không tiếp cận kiểu “đè nghi thức xuống” mà gỡ từng bước những “niềm tin lệch lạc” trong não bộ đang nuôi dưỡng vòng lặp OCD. Ví dụ: Con sợ bẩn không phải vì bẩn, mà vì tin rằng nếu không sạch dẫn đến người thân chết nên Phải gỡ nỗi tin lệch trước thì hành vi mới giảm được thật sự.
4. Cha mẹ phải được trị liệu – trước khi trị liệu con
=> Chuyên gia thẳng thắn cho rằng “OCD là rối loạn không của riêng trẻ – mà là sự hợp tác vô thức giữa nỗi sợ trong con và cách ứng xử sai trong cha mẹ.” Rất nhiều ca được đưa về ẩn dưới lỗi của cha mẹ: Mẹ luôn dọa nạt, kiểm tra, cầu toàn, ám thị vô thức. Bố yêu cầu tuyệt đối – vô tình gieo nỗi sợ thất bại và khi cha mẹ thay đổi con chữa được.
=> Chuyên gia không bao giờ trị liệu cho trẻ mà không dạy phụ huynh cách phản ứng không nuôi nghi thức và Ngăn chặn việc vô thức “tiếp tay” cho OCD tái phát.
5. Kết hợp đồng thời 3 hình thức trị liệu cá nhân hóa:
=> Trị liệu tâm lý chuyên sâu cho trẻ: Gỡ vòng ám ảnh – chỉnh nhận thức – xây cơ chế tự kiểm soát.
=> Trị liệu gia đình: Cha mẹ học cách tương tác đúng – quản trị cảm xúc khi con tái phát – hỗ trợ đúng nhịp.
=> Trị liệu hành vi bằng ứng dụng, trải nghiệm thực tế: Dẫn trẻ vượt qua ám ảnh một cách vui vẻ – nhẹ nhàng – chứ không cưỡng chế.
6. Tổng hợp auan điểm khác biệt
Chẩn đoán: THÔNG THƯỜNG Dựa vào hành vi lặp lại CHUYÊN GIA Phân tích 3 lớp tâm lý – hành vi – nội tâm
TRị liệu: THÔNG THƯỜNG CBT + thuốc CHUYÊN GIA Gỡ niềm tin lệch + CBT + vai trò cha mẹ
Thời gian: THÔNG THƯỜNG 1 chiều – theo giai đoạn CHUYÊN GIA Cá nhân hóa – theo sự tiến triển của trẻ
Vai trò cha mẹ: THÔNG THƯỜNG Thụ động, đứng ngoài CHUYÊN GIA Tích cực, trị liệu song hành
Cảnh báo: THÔNG THƯỜNG Ít cảnh báo nguy cơ tái phát CHUYÊN GIA Cảnh báo rõ, sâu sắc, từ đầu đến cuối
Phương pháp: THÔNG THƯỜNG Gò khuôn, khuôn mẫu CHUYÊN GIA Cá thể hóa theo từng dạng OCD
📌 P9. Kết quả con trẻ đạt được và thay đổi của cha mẹ như thế nào sau khi chẩn đoán và trị liệu từ chuyên gia
Kết quả mà con trẻ và cha mẹ đạt được sau quá trình chẩn đoán và trị liệu từ chuyên gia Phạm Hiền, đặc biệt trong các ca trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) hoặc những rối loạn tâm lý tương tự, được ghi nhận là rất khác biệt, sâu sắc và bền vững. Dưới đây là những thay đổi nổi bật ở cả trẻ và cha mẹ, được tổng hợp từ phản hồi thực tế của các phụ huynh đã đồng hành cùng chuyên gia:
1. Với con trẻ – từ khủng hoảng sang phục hồi toàn diện
✅ Thoát khỏi vòng lặp ám ảnh – cưỡng chế
=> Trước trị liệu: Trẻ thường lặp lại hành vi như: rửa tay hàng chục lần, kiểm tra ổ khóa, cầu toàn thái quá, sợ sai lỗi nhỏ, né tránh đi học, nói lặp, kiểm tra người thân còn sống…
=> Sau trị liệu: Trẻ giảm dần – rồi thoát khỏi các nghi thức. Có thể kiểm soát suy nghĩ và hành vi cưỡng chế thay vì bị nó điều khiển. Dám đối mặt với “nỗi sợ” thay vì né tránh hay chạy trốn.
✅Tự tin và tự chủ cảm xúc rõ rệt
=> Biết cách kiểm soát lo âu – suy nghĩ tiêu cực – kỳ vọng méo mó.
=> Dám bày tỏ nhu cầu, mong muốn, cảm xúc mà không rơi vào vòng rối loạn.
✅Cải thiện học tập, ngủ, giao tiếp, mối quan hệ
=> Trẻ học hành tập trung hơn, không còn lo âu lấn át.
=> Giấc ngủ đều, không còn các cơn hoảng loạn ban đêm.
=> Quan hệ với cha mẹ, bạn bè không căng thẳng, tránh né như trước.
P/s: Một phụ huynh chia sẻ ” Ba năm rồi con mới được ngủ một mạch đến sáng và bố mẹ không phải thức cùng sự la hét đến cháy họng của con trong đêm”
2. Với cha mẹ – từ loạn nhịp sang đồng hành đúng cách
✅ Thay đổi từ nhận thức sai thành hiểu biết đúng
=> Trước: Cho rằng con chỉ “khó tính”, “quá cẩn thận”, hoặc nghĩ con bịa chuyện, ngang bướng.
=> Sau: Hiểu rằng con là nạn nhân của một cơ chế tâm lý lệch lạc – và cần đồng hành đúng cách, không trách mắng.
✅ Loại bỏ cách cư xử vô thức nuôi bệnh cho con
=> Dừng việc vô tình tạo áp lực cầu toàn, dọa nạt, giám sát quá mức.
=> Không còn ép con “phải bỏ ngay hành vi” mà biết cách can thiệp đúng thời điểm, đúng ngôn từ.
✅Học kỹ năng cha mẹ trị liệu
=> Biết cách giúp con vượt vòng lặp tâm lý qua lời nói, cách phản ứng.
=> Cân bằng cảm xúc cha mẹ, tránh đổ lỗi cho nhau hoặc gục ngã tinh thần.
P/s: Một phụ huynh chia sẻ “Tôi không ngờ người cần trị liệu trước lại là tôi. Nếu tôi không thay đổi, con tôi sẽ mãi bị nhấn chìm trong nỗi sợ mà chính tôi là người châm ngòi.”
3. Sự ổn định lâu dài và ngăn tái phát
=> Các ca đã trị liệu đúng theo lộ trình 3–6 tháng thường ổn định đến 80–95% và không tái phát trong ít nhất 1–2 năm nếu cha mẹ duy trì đúng phương pháp.
=> Trẻ phát triển bình thường, tự tin bước vào môi trường học đường – thi cử – xã hội mà không cần dùng thuốc kéo dài.
P/s: Một lời cảm ơn từ mẹ của bé 10 tuổi từng OCD cấp độ nặng: “Tôi không còn phải đưa con đi cấp cứu giữa đêm vì cháu hoảng loạn. Sau 5 tháng, cháu như một người khác – nhẹ nhõm, vui vẻ, không còn nói những câu như ‘mẹ ơi con sợ chết’ mỗi ngày nữa.”
(XEM THÊM)
A – HIỂU ĐÚNG VỀ RỐI LOẠN LO ÂU Ở CON TRẺ
P1. Chuyên gia Phạm Hiền cho biết dấu hiệu con trẻ bị rối loạn lo âu ở con trẻ
Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền đã từng chỉ ra khá chi tiết các dấu hiệu nhận biết rối loạn lo âu ở trẻ em, đặc biệt nhấn mạnh việc cha mẹ cần nhận biết sớm để tránh hậu quả kéo dài hoặc phát triển thành các rối loạn tâm lý khác khi trưởng thành.
1. Biểu hiện về mặt cảm xúc
=> Lo lắng quá mức với những điều bình thường như đi học, tách xa cha mẹ, gặp người lạ.
=> Luôn sợ hãi (bóng tối, ở một mình, thay đổi môi trường, đi học, kiểm tra…).
=> Khó kiểm soát cảm xúc, dễ cáu kỉnh, hay bật khóc vô cớ.
=> Có xu hướng trốn tránh tình huống gây lo âu, như từ chối đến trường hoặc không chịu tham gia hoạt động nhóm.
2. Biểu hiện về mặt hành vi
=> Co rúm người, gãi tay, cắn móng tay, giật tóc… khi lo lắng.
=> Lảng tránh, im lặng, hoặc thu mình khi được hỏi tới vấn đề cá nhân.
=> Cần sự đảm bảo lặp lại liên tục từ cha mẹ (ví dụ: “Con có ổn không?”, “Có gì xảy ra không?”, “Mẹ có yêu con không?”…).
=> Tránh né tiếp xúc xã hội, thiếu tự tin, không dám phát biểu, không dám thể hiện bản thân.
3. Biểu hiện về mặt thể chất
=> Đau bụng, đau đầu, buồn nôn không rõ nguyên nhân y khoa.
=> Rối loạn giấc ngủ: khó ngủ, hay giật mình, gặp ác mộng.
=> Mất khẩu vị hoặc ăn rất ít.
=> Căng cơ, đổ mồ hôi, tim đập nhanh khi gặp tình huống gây lo lắng.
4. Dấu hiệu theo từng độ tuổi
✅ Trẻ mầm non (3–6 tuổi)
=> Khóc quấy nhiều khi rời cha mẹ, bám riết không rời.
=> Sợ hãi các hiện tượng thông thường (tiếng động, gió, bóng tối).
=> Hay hỏi đi hỏi lại một vấn đề gây lo lắng.
✅ Trẻ tiểu học (6–11 tuổi)
=> Sợ đi học, sợ kiểm tra, lo thất bại.
=> Đòi cha mẹ đi cùng, không muốn ở một mình.
=> Hay so sánh bản thân với người khác theo hướng tiêu cực.
✅ Trẻ vị thành niên (12+ tuổi)
=> Căng thẳng kéo dài, áp lực học tập lớn.
=> Lo lắng về ngoại hình, mối quan hệ bạn bè, thất vọng bản thân.
=> Dễ rơi vào trạng thái mất động lực, uể oải, thu mình.
🚨 Chuyên gia lưu ý thêm
=> Không phải đứa trẻ nào lo lắng cũng bị rối loạn lo âu, nhưng nếu các biểu hiện kéo dài hơn 3 tháng và ảnh hưởng rõ rệt đến sinh hoạt, cần can thiệp trị liệu tâm lý sớm.
=> Một số trẻ lo âu thể hiện qua các rối loạn hành vi khác như tăng động, cáu gắt, hoặc rối loạn ăn uống, nên cha mẹ rất dễ bỏ qua hoặc chẩn đoán sai.
P2. Dấu hiệu nhận biết sớm rối loạn lo âu ở trẻ trong từng độ tuổi và cách ngăn chặn
Dưới đây là tổng hợp chi tiết dấu hiệu nhận biết sớm rối loạn lo âu ở trẻ trong từng độ tuổi và cách ngăn chặn, theo cách trình bày thường thấy trong hướng dẫn của chuyên gia Phạm Hiền:
1. Dấu hiệu nhận biết sớm rối loạn lo âu theo từng độ tuổi
✅ Trẻ từ 0 – 3 tuổi (giai đoạn sơ sinh – chập chững biết đi)
=> Dấu hiệu sớm: Khóc quá mức, khó dỗ khi tách khỏi cha mẹ. Phản ứng quá nhạy cảm với tiếng động hoặc người lạ. Chậm tương tác xã hội (ít nhìn mắt, không đáp lại khi gọi tên). Bám riết người chăm sóc, không cho rời ra.
=> Ngăn chặn sớm: Tạo cảm giác an toàn, nhất quán: giữ giờ giấc sinh hoạt cố định, không thay đổi đột ngột người chăm sóc. Vuốt ve, ôm ấp, trò chuyện thường xuyên để tăng kết nối cảm xúc. Tránh quát mắng, hù dọa, đặc biệt trong môi trường mới.
✅ Trẻ từ 3 – 6 tuổi (mầm non)
=> Dấu hiệu sớm: Sợ hãi dai dẳng: sợ bóng tối, quái vật, sấm chớp, bị bỏ rơi. Hay gặp ác mộng, khó ngủ, đòi ngủ cùng người lớn. Tránh né trường học, khóc lóc khi phải tách cha mẹ. Hỏi đi hỏi lại về tình huống gây lo: “Mẹ có về đón con không?”, “Con có bị sao không?”…
=> Ngăn chặn sớm: Giới thiệu tình huống mới nhẹ nhàng (ví dụ: làm quen trước khi cho đi học). Kể chuyện, đóng kịch để trẻ hiểu và giải tỏa lo sợ. Tránh chế giễu hoặc ép trẻ “dũng cảm” quá sức.
✅Trẻ từ 6 – 11 tuổi (tiểu học)
=> Dấu hiệu sớm: Lo lắng quá mức về bài vở, kiểm tra, hoặc các quy tắc xã hội. Tự ti, sợ bị phê bình, sợ sai, sợ bị chê. Dấu hiệu thể chất: đau bụng, đau đầu khi đến trường. Tìm kiếm sự trấn an liên tục từ người lớn.
=> Ngăn chặn sớm: Giúp trẻ tổ chức thời gian, tránh áp lực học tập dồn nén. Cổ vũ sự cố gắng, không quá tập trung vào thành tích. Tạo điều kiện cho trẻ kết nối xã hội, chơi nhóm, tăng tự tin.
✅Trẻ từ 12 – 18 tuổi (tuổi vị thành niên)
=> Dấu hiệu sớm: Thường xuyên căng thẳng, mất ngủ, than thở về việc học. Lo âu về ngoại hình, mối quan hệ bạn bè, mạng xã hội. Tránh né đám đông, thu mình, ngại giao tiếp, có thể kèm dấu hiệu trầm cảm. Có hành vi kiểm soát, cầu toàn hoặc hoảng loạn khi mọi thứ không như ý.
=> Ngăn chặn sớm: Chủ động lắng nghe, không áp đặt hay so sánh với người khác. Tạo không gian an toàn để con chia sẻ, không phán xét. Hướng dẫn kỹ năng giải quyết vấn đề, thư giãn, quản lý cảm xúc (viết nhật ký, thiền, vẽ…).
2. Các yếu tố gây nguy cơ rối loạn lo âu – cần phòng tránh
Chuyên gia Phạm Hiền cảnh báo một số sai lầm của cha mẹ có thể làm tăng nguy cơ lo âu cho con:
=> Áp lực học tập, so sánh với anh chị/bạn bè.
=> Kiểm soát quá mức, không để trẻ tự lập.
=> Hay la mắng, đe dọa, cấm đoán mà không giải thích.
=> Thờ ơ, bỏ mặc cảm xúc của con, để con loay hoay một mình.
3. Các biện pháp phòng ngừa tổng quát (mọi độ tuổi)
=> Tạo môi trường yêu thương, an toàn và ổn định.
=> Khuyến khích trẻ thể hiện cảm xúc, không ép giấu giếm.
=> Dạy con kỹ năng tự trấn an, nói chuyện nội tâm tích cực.
=> Nếu có dấu hiệu kéo dài >6 tháng hoặc ảnh hưởng sinh hoạt ⇒ nên can thiệp trị liệu tâm lý.
P3. Hậu quả và biến chứng khi con trẻ bị rối loạn lo âu
✅ HẬU QUẢ CHUNG
Khi trẻ bị rối loạn lo âu, hậu quả không chỉ dừng lại ở những biểu hiện cảm xúc tức thời như sợ hãi hay né tránh, mà còn có thể ảnh hưởng sâu rộng đến sức khỏe tinh thần, thể chất, học tập, các mối quan hệ xã hội và sự phát triển nhân cách lâu dài. Dưới đây là tổng hợp hệ thống các hậu quả phổ biến và nghiêm trọng, được chuyên gia Phạm Hiền cảnh báo trong nhiều trường hợp thực tế tại trung tâm can thiệp, trị liệu tâm lý:
1. Hậu quả tâm lý – cảm xúc
=> Mất cảm giác an toàn nội tâm: Trẻ luôn trong trạng thái lo lắng mơ hồ, cảnh giác quá mức, khó thả lỏng. Cảm thấy bản thân “có vấn đề”, “khác biệt”, “không bình thường”.
=> Tự ti, mặc cảm, sợ bị đánh giá: Tránh giao tiếp, không dám thể hiện ý kiến. Sống khép kín, thường xuyên xin lỗi, hoặc sợ làm người khác buồn.
=> Mất kiểm soát cảm xúc: Dễ bật khóc, hoảng loạn, giận dữ, hoặc nội tâm hóa đau khổ không chia sẻ. Một số trẻ bộc phát hành vi tự hại khi không thể chịu thêm áp lực.
2. Hậu quả học tập – hành vi
=> Sa sút học tập: Không thể tập trung lâu do đầu óc bị chi phối bởi nỗi sợ. Né tránh đi học, sợ kiểm tra, không dám phát biểu. Trốn học, nói dối, thu mìnhĐể tránh tình huống gây lo âu, trẻ có thể bịa lý do nghỉ học, giả vờ đau bụng, lặng lẽ chịu đựng.
=> Phát triển hành vi phòng vệ lệch lạc: Một số trẻ dùng cơn giận, chống đối, tăng động nhẹ như cách che giấu nỗi lo sâu bên trong.
3. Hậu quả quan hệ xã hội – gia đình
=> Khó hòa nhập xã hội: Trẻ sợ người lạ, sợ phản ứng người khác, dễ bị cô lập hoặc bị hiểu nhầm là “khó gần, lập dị”.
=> Mâu thuẫn cha mẹ – con: Khi cha mẹ không hiểu con đang lo âu, gây áp lực, dẫn đến xung đột, trách phạt, khiến trẻ mất niềm tin và khép lòng.
=> Phát triển nhân cách lệch lạc: Trẻ lớn lên có xu hướng Phụ thuộc cảm xúc vào người khác, Cầu toàn, sợ sai, không dám mạo hiểm, thiếu bản lĩnh, Có thể trở thành người lớn “ngoan nhưng yếu”, dễ rơi vào trầm cảm ngầm.
4. Biến chứng nặng nếu không can thiệp sớm
=> Trầm cảm DẤU HIỆU CẢNH BÁO Mất hứng thú, ngủ nhiều/khó ngủ, buồn bã thường xuyên HẬU QUẢ Mất động lực sống, tự cô lập, nguy cơ tự tử
=> Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) DẤU HIỆU CẢNH BÁO Lặp suy nghĩ, hành vi ép buộc (rửa tay liên tục, kiểm tra hoài…) HẬU QUẢ Gây suy giảm nghiêm trọng chất lượng sống
=> Rối loạn ăn uống DẤU HIỆU CẢNH BÁO Bỏ ăn, ăn vô tội vạ, kiểm soát ăn uống thái quá HẬU QUẢ Suy dinh dưỡng, rối loạn thể chất
=> Rối loạn hành vi DẤU HIỆU CẢNH BÁO Cáu gắt, bất hợp tác, chống đối xã hội HẬU QUẢ Ảnh hưởng học đường, bị cô lập xã hội
=> Tự hại / ý nghĩ tự tử DẤU HIỆU CẢNH BÁO Nói “con muốn biến mất”, tự làm đau, mất kiểm soát cảm xúc HẬU QUẢ Cực kỳ nguy hiểm – cần can thiệp khẩn cấp
P/s: Chuyên gia Phạm Hiền cảnh báo: Lo âu không điều trị kịp thời có thể trở thành gốc rễ của nhiều rối loạn nặng nề khác trong cuộc đời một con người. Nó bào mòn ý chí, tính cách và tương lai của đứa trẻ một cách thầm lặng.” Phải Hành động kịp thời – ngăn hậu quả nên Cha mẹ cần: Nhận biết dấu hiệu sớm và không trì hoãn can thiệp. Tìm đến chuyên gia tâm lý trẻ em uy tín để đánh giá và xây dựng lộ trình. Không phủ nhận – không đổ lỗi – không hạ thấp cảm xúc của con. Luôn làm “nơi an toàn” cho con, không phải nơi áp lực.
✅ HẬU QUẢ THEO TỪNG ĐỘ TUỔI
Dưới đây là tổng hợp hậu quả của rối loạn lo âu theo từng độ tuổi phát triển, dựa trên phân tích thực tế của chuyên gia tâm lý Phạm Hiền và các nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực tâm lý trẻ em. Việc phân loại này giúp cha mẹ nhận diện sớm và phòng tránh biến chứng đặc thù của mỗi giai đoạn phát triển.
1. Giai đoạn 0 – 3 tuổi (Sơ sinh đến chập chững)
=> Rối loạn gắn bó: trẻ bám mẹ cực đoan, không thể tách rời người chăm sóc.
=> Chậm phát triển ngôn ngữ: do lo âu gây ức chế khả năng tiếp nhận kích thích.
=> Rối loạn giấc ngủ – rối loạn tiêu hóa: quấy khóc đêm, giật mình, kém ăn, táo bón/tiêu chảy không rõ nguyên nhân.
=> Dễ hình thành tính khí khó chịu: cáu kỉnh, kích thích quá mức với tiếng động, người lạ.
=> Tăng nguy cơ phát triển hành vi né tránh, phòng vệ khi lớn hơn.
P/s: Đây là giai đoạn xây nền cảm xúc. Nếu để lo âu hình thành mà không xử lý, trẻ sẽ phát triển trong tâm thế bất an – nghi ngờ thế giới, ảnh hưởng đến toàn bộ các giai đoạn tiếp theo.
2. Giai đoạn 3 – 6 tuổi (Mầm non)
=> Ám ảnh sợ hãi dai dẳng: sợ bóng tối, sợ ở một mình, sợ người lạ kéo dài.
=> Ác mộng thường xuyên: rối loạn giấc ngủ nặng hơn.
=> Giảm khả năng thích nghi trường lớp: sợ đi học, không dám nói chuyện với cô giáo hoặc bạn bè.
=> Hành vi thoái lùi: tè dầm, mút tay, bám mẹ như trẻ nhỏ hơn tuổi.
=> Bắt đầu hình thành lòng tin lệch lạc về bản thân: “Con không giỏi”, “Con yếu lắm”, “Con đáng sợ”.
P/s: Giai đoạn này nếu không can thiệp, trị liệu đúng, trẻ có thể khởi phát rối loạn lo âu phân ly hoặc lo âu xã hội sớm, ảnh hưởng giai đoạn tiểu học.
3. Giai đoạn 6 – 11 tuổi (Tiểu học)
=> Suy giảm kết quả học tập: do sợ sai, sợ kiểm tra, không dám giơ tay, mất tập trung.
=> Hành vi né tránh học đường: giả bệnh, trốn tiết, lặng lẽ thu mình trong lớp.
=> Rối loạn ám ảnh nhẹ xuất hiện: rửa tay nhiều, kiểm tra đồ vật lặp lại, lo nghĩ không kiểm soát.
=> Căng thẳng kéo dài gây đau bụng, nhức đầu, chóng mặt không có nguyên nhân y khoa.
=> Tăng tính phụ thuộc vào người thân: không tự tin giải quyết vấn đề.
=> Có thể gây rối, gây xung đột với bạn bè, thầy cô, cha mẹ
P/s: Đây là giai đoạn trẻ bắt đầu so sánh bản thân – hình thành bản ngã. Nếu lo âu kéo dài, trẻ sẽ hình thành nhân cách phòng vệ, mất động lực phấn đấu và sống lệ thuộc vào sự công nhận từ bên ngoài.
4. Giai đoạn 12 – 18 tuổi (Vị thành niên – tuổi dậy thì)
=> Biến chứng thành trầm cảm: mất ngủ, buồn dai dẳng, suy nghĩ tiêu cực về bản thân.
=> Xuất hiện hành vi tự hại: cào tay, cắn móng, đập đầu, hoặc nói “muốn biến mất”.
=> Lo âu thi cử – định hướng – ngoại hình dẫn đến rối loạn ăn uống, nghiện mạng xã hội.
=> Khó tạo lập quan hệ tình cảm lành mạnh: lo bị phản bội, sợ thân mật, hoặc dễ rơi vào mối quan hệ độc hại.
=> Tăng nguy cơ nghiện game, rối loạn hành vi phản kháng xã hội: như cách thoát khỏi cảm xúc lo âu nội tại.
=> Tăng sự thu mình trong gai góc phản kháng và dễ muốn học xấu thể hiện xấu đề thỏa mãn bức bối
=> Dễ sa đà vào các chất gây nghiện để thỏa mãn giảm áp lực bằng sự phấn khích, hứng phấn tạm thời
P/s: Nếu lo âu không được xử lý trong giai đoạn này, trẻ rất dễ bước vào tuổi trưởng thành với nhân cách yếu ớt, lệch lạc, có nguy cơ mắc các rối loạn tâm thần nặng hơn (rối loạn loạn thần, hoảng loạn, rối loạn nhân cách tránh né…).
Tổng kết theo bảng sau:
=> Giai đoạn 0 – 3 tuổi HẬU QUẢ Rối loạn gắn bó, khó ngủ, chậm nói BIẾN CHỨNG Phát triển hành vi phòng vệ cực đoan
=> Giai đoạn 3 – 6 tuổi HẬU QUẢ Sợ hãi dai dẳng, ác mộng, thu mình BIẾN CHỨNG Rối loạn lo âu chia ly, lo âu xã hội
=> Giai đoạn 6 – 11 tuổi HẬU QUẢ Né tránh học đường, đau thể chất, sợ sai BIẾN CHỨNG Ám ảnh cưỡng chế, mất động lực học tập
=> Giai đoạn 12 – 18 tuổi HẬU QUẢ Trầm cảm, tự hại, nghiện, sợ giao tiếp BIẾN CHỨNG Rối loạn nhân cách, hoảng loạn, nghiện chất/kỹ thuật số
Hướng xử lý sơ bộ theo từng giai đoạn
=> Dưới 6 tuổi: Cần trị liệu gắn bó cảm xúc, can thiệp bằng chơi trị liệu – giao tiếp cảm xúc.
=> 6–11 tuổi: Can thiệp theo mô hình CBT (nhận thức – hành vi), kết hợp cha mẹ – giáo viên – trẻ.
=> 12–18 tuổi: Phải đánh giá nguy cơ trầm cảm/tự hại, cần chuyên gia tâm lý lâm sàng theo sát. Đồng hành cha mẹ cực kỳ quan trọng để giải áp lực học và khôi phục nội lực.
P/s: Đường nhiên đây chỉ là hướng sơ bộ còn lại mỗi con trẻ sẽ có vấn đề khác nhau và bắt buộc đi vào trị liệu chuyên sâu toàn diện cho con từng ngóc ngách vấn đề đó
P4. Nguyên nhân trẻ bị rối loạn lo âu
✅ KHUYNH HƯỚNG CHUNG
Dưới đây là tổng hợp nguyên nhân trẻ bị rối loạn lo âu theo phân tích và quan điểm chuyên sâu của chuyên gia Phạm Hiền, dựa trên hàng nghìn ca trị liệu thực tế ở các độ tuổi khác nhau. Gồm 5 nhóm chính, với cảnh báo rằng nhiều cha mẹ vô tình tạo ra hoặc nuôi lớn lo âu của con mà không hề biết.
1. Yếu tố bẩm sinh – khí chất thần kinh yếu hoặc dễ nhạy cảm
=> Một số trẻ sinh ra đã có hệ thần kinh phản ứng quá nhạy với môi trường, dễ bị kích thích quá mức
=> Não bộ trẻ xử lý thông tin tiêu cực mạnh hơn tích cực, gây thiên lệch cảm xúc
=> Năng lực tự phát triển Tư duy nhận thức, thích ứng, thích nghi học các kỹ năng từ môi trường sống chậm thậm chí không có
=> Năng lực tự phát triển tính cách, tâm lý, cảm xúc, hành vi chậm thậm chí không tự phát triển đúng
=> Cảm nhận, cảm giác yếu thậm chí không cảm nhận được các vấn đề xung quanh trong sự dễ bấn loạn sợ vô thức
P/s: Nhiều trẻ nhạy cảm từ nhỏ, nhưng cha mẹ lại dán nhãn: ‘Nó vẽ chuyện, bày đặt, yếu đuối’ – điều này chỉ khiến não trẻ phản ứng mạnh hơn với lo âu.”
2. Tác động từ môi trường nuôi dạy – gia đình thiếu an toàn cảm xúc
=> Cha mẹ nóng nảy, chỉ trích, mắng mỏ, kiểm soát quá mức
=> So sánh, áp lực học tập, yêu cầu cao, không để con sai hay yếu
=> Trẻ sống trong gia đình có bạo lực, ly thân, căng thẳng kéo dài
=> Môi trường quá trầm lắng và không có các tương tác sôi nổi theo tuổi của con
=> Không tạo được năng lực động lực, hứng khới, vui vè trong các môi trường sống
P/S: Gia đình không an toàn về mặt cảm xúc sẽ khiến trẻ học cách… lo từ khi chưa biết nói.
3. Giao tiếp sai lệch – ngôn từ tổn thương vô hình nhắm vào con
=> Câu nói gây lo âu mà cha mẹ thường không ý thức: “Học thế này thì đi ăn xin”, “Mẹ sẽ không yêu con nữa”, “Ai như con là thất bại rồi”,“Con làm xấu mặt mẹ đấy”…
=> Thúc ép và dùng các từ ngữ dán nhãn chỉ chích con ngu dốt, vô dụng….
P/s: Ngôn từ của cha mẹ có thể là thuốc – hoặc là liều độc kích hoạt lo âu suốt đời.
4. Tác động từ công nghệ, mạng xã hội, truyền thông độc hại
=> Trẻ tiếp cận sớm với: Bị ám thị Nội dung đáng sợ, phim kinh dị, thông tin tiêu cực và Trẻ ít tương tác đời thực, lệch kỹ năng ứng phó
=> Ám thị Ảo tưởng sức mạnh của bản thân như trên mạng hoặc thần tượng hóa bắt chước thần tượng sai lệch trên mạng xã hội vô thức tạo phấn khích thái quá hoặc thất vọng thái quá, So sánh bản thân trên mạng, sợ không bằng bạn bè,
P/s: Não trẻ không có bộ lọc tự nhiên với nội dung hại. Đó là lý do trẻ 5 tuổi đã mất ngủ, 10 tuổi đã lo về ngoại hình
5. Trải nghiệm tiêu cực không được giải tỏa
=> Bị bắt nạt, bị bạo hành, bị lạm dụng, hoặc chứng kiến tai nạn/biến cố
=> Những chuyện tưởng nhỏ: chuyển lớp, thua bạn, điểm thấp, bị xấu hổ công khai cũng để lại vết thương cảm xúc
P/s: Trẻ con có thể ‘nghe thì quên’, nhưng cảm xúc tiêu cực thì… lưu vào vỏ não suốt tuổi thơ.
6. Biến chứng từ các rối loạn phát triển
=> Biến chứng từ con bị tự kỷ, bị tăng động giảm chú ý, bị chậm phát triển tâm thần nhưng không được ngăn chặn gốc
=> Biến chứng từ rối loạn ám ảnh cưỡng chế và các rối loạn tâm thần khác nhưng không được phát hiện hoặc ngăn chặn
P/s: Khi con đã có các ngưỡng rối loạn phát triển hoặc tâm thần sẽ luôn có các biến chứng về tâm lý nhưng nhiều cha mẹ không lường trước được và không biết để giúp con ngăn chặn song song quá trình can thiệp, trị liệu trong các ngưỡng can thiệp, trị liệu các rối loạn sớm trước đã có.
👉 Không có đứa trẻ nào chọn bị lo âu. Nhưng rất nhiều đứa trẻ bị lo âu bởi người lớn không biết cách hiểu và bảo vệ cảm xúc của con. Việc của cha mẹ không phải là bịt nỗi sợ của con, mà là đồng hành, giải mã và tháo gỡ từ gốc.
✅ KHUYNH HƯỚNG THEO ĐỘ TUỔI
Dưới đây là tổng hợp các nguyên nhân gây rối loạn lo âu ở trẻ theo từng độ tuổi, dựa trên phân tích chuyên sâu từ chuyên gia tâm lý Phạm Hiền – người đã tiếp xúc với hàng ngàn trường hợp trẻ em có vấn đề tâm lý ở nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nguyên nhân rối loạn lo âu theo từng độ tuổi phát triển
1. Trẻ từ 0 – 3 tuổi (Sơ sinh đến chập chững biết đi)
=> Tách biệt sớm với mẹ: Trẻ bị gửi đi sớm, ít được ôm ấp, vỗ về.
=> Môi trường sống không ổn định: cha mẹ hay cãi nhau, chuyển nhà liên tục, người chăm sóc thay đổi.
=> Thiếu kết nối cảm xúc: mẹ ít trò chuyện, phản ứng chậm với tín hiệu khó chịu của trẻ (khóc, lăn lộn…).
=> Mẹ lo âu hoặc trầm cảm sau sinh: ảnh hưởng mạnh đến sự hình thành hệ thần kinh cảm xúc của trẻ.
=> Con trẻ không có khả năng kết nối và phản ứng cảm nhận được với thế giới quan xung quanh nên không tự thích nghi trong tâm lý vốn dĩ yếu ớt nên tạo ra các nỗi sợ hãi vô thức
P/s: Trẻ ở giai đoạn này chưa biết diễn đạt bằng lời, nên lo âu thường thể hiện bằng khó ngủ, quấy khóc, bám mẹ quá mức, giật mình…
2. Trẻ từ 3 – 6 tuổi (Mầm non)
=> Sợ bị tách khỏi cha mẹ: đi học mẫu giáo nhưng chưa được chuẩn bị tâm lý.
=> Bị đe dọa, dọa nạt quá nhiều: sợ “ông kẹ”, “cảnh sát bắt”, “bị bỏ rơi”…hoặc chứng kiến các xung đột mạnh từ sự cãi nhau, đánh chửi của con người xung quanh môi trường sống và giáo dục
=> Xem quá nhiều nội dung gây lo sợ: hoạt hình bạo lực, kênh Youtube không kiểm soát.
=> Tiếp xúc với người lớn bất ổn: người chăm sóc hay quát tháo, khó lường, nghiêm khắc thái quá.
=> Con trẻ không có khả năng kết nối và phản ứng cảm nhận được với thế giới quan xung quanh nên không tự thích nghi trong tâm lý vốn dĩ yếu ớt nên tạo ra các nỗi sợ hãi vô thức
=> Nhút nhát và giao tiếp kém thậm chí khó để thích ứng kết nối, nói chuyện và chơi với các bạn nên chỉ thu mình ngồi một chỗ
=> Dễ sợ hãi các hoạt động mạnh từ bản thân khi tương tác hành vi hoặc từ quan sát các bạn có các hoạt động mạnh
=> Có các khuynh hướng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế mà không phát hiện ra từ lúc 2 đến 3 tuổi
P/s: Lo âu giai đoạn này thường biểu hiện qua sợ bóng tối, sợ ở một mình, gặp ác mộng, hỏi đi hỏi lại các tình huống gây lo.
3. Trẻ từ 6 – 11 tuổi (Tiểu học)
=> Áp lực học tập: bị so sánh, điểm thấp bị mắng, sợ bị phạt.
=> Thiếu kỹ năng ứng phó xã hội: bị bắt nạt, bị cô lập nhưng không biết phản kháng.
=> Kỳ vọng cao từ cha mẹ: ép học thêm, kỳ vọng thành tích, không cho sai.
=> Môi trường giáo dục nghiêm khắc – thiếu cảm xúc: giáo viên hoặc người lớn truyền đạt bằng mệnh lệnh, đe dọa.
=> Nhút nhát và giao tiếp kém thậm chí khó để thích ứng kết nối, nói chuyện và chơi với các bạn nên chỉ thu mình ngồi một chỗ
=> Dễ sợ hãi các hoạt động mạnh từ bản thân khi tương tác hành vi hoặc từ quan sát các bạn có các hoạt động mạnh
=> Có các khuynh hướng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế mà không phát hiện ra từ lúc 2 đến 3 tuổi hoặc giảm chú ý từ giai đoạn mầm non
=> Năng lực tư duy nhận thức để tự học hỏi và thích nghi, thích ứng học hỏi từ môi trường sống chậm gây loay hoay, bế tắc
=> Mâu thuẫn gia đình, cha mẹ ly hôn, lạnh nhạt hoặc áp đặt.
=> Không có kỹ năng quản lý cảm xúc, thiếu người lắng nghe.
=> Gặp các biến cố vượt quá sức chịu đựng vô thức
=> Các mối quan hệ bất ổn giữa người thân, thầy cô, bạn bè ( Bị chê bai, bị nói xấu, bị kỳ thị, bị tẩy chay, bị dán nhãn vô dụng…)
=> Các kỹ năng và khả năng thể hiện bản thân kém nhưng rất khát khao thể hiện nên rơi vào thất vọng, bức bối hoang mang của sự tự ti ( Giải quyết vấn đề/ thể hiện cảm xúc/ thể hiện khả năng..)
P/s: Lo âu biểu hiện qua đau bụng khi đi học, lảng tránh kiểm tra, không dám phát biểu, ám ảnh hoàn hảo hoặc cầu toàn.
4. Trẻ từ 12 – 18 tuổi (Vị thành niên – tuổi teen)
=> Áp lực học tập: bị so sánh, điểm thấp bị mắng, sợ bị phạt.
=> Thiếu kỹ năng ứng phó xã hội: bị bắt nạt, bị cô lập nhưng không biết phản kháng.
=> Kỳ vọng cao từ cha mẹ: ép học thêm, kỳ vọng thành tích, không cho sai.
=> Áp lực thi cử, chọn trường, định hướng tương lai.
=> Kỳ vọng cao quá với năng lực của bản thân hoặc kỳ vọng lệch lạc khỏi quỹ đạo phát triển thông thường con người
=> Bị ảo tưởng về năng lực bản thân và thất vọng trong hiếu thắng khi không đạt được
=> Bị thần tượng hóa lệch lạc và tự thất vọng về bản thân hoặc cố chạy theo bắt chước thần tượng đến mức phấn khích thái quá gây rối loạn khi chưa đạt đến hoặc chưa có thứ gì đó..
=> So sánh bản thân trên mạng xã hội, lo sợ bị bỏ rơi, đánh giá.
=> Mâu thuẫn gia đình, cha mẹ ly hôn, lạnh nhạt hoặc áp đặt.
=> Không có kỹ năng quản lý cảm xúc, thiếu người lắng nghe.
=> Nhút nhát và giao tiếp kém thậm chí khó để thích ứng kết nối, nói chuyện và chơi với các bạn nên chỉ thu mình
=> Có các khuynh hướng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế mà không phát hiện ra từ lúc 2 đến 3 tuổi hoặc giảm chú ý từ giai đoạn mầm non
=> Năng lực tư duy nhận thức để tự học hỏi và thích nghi, thích ứng học hỏi từ môi trường sống chậm gây loay hoay, bế tắc
=> Các mối quan hệ bất ổn giữa người thân, thầy cô, bạn bè ( Bị chê bai, bị nói xấu, bị kỳ thị, bị tẩy chay, bị dán nhãn vô dụng…)
=> Các kỹ năng và khả năng thể hiện bản thân kém nhưng rất khát khao thể hiện nên rơi vào thất vọng, bức bối hoang mang của sự tự ti, bất cần ( Giải quyết vấn đề/ thể hiện cảm xúc/ thể hiện khả năng..)
=> Gặp các biến cố vượt quá sức chịu đựng rõ nét
=> Đã từng bị các rối loạn phát triển ( Rối loạn ám ảnh cưỡng chễ, Rối loạn hành vi và cảm xúc, Chậm phát triển tâm thần, Tăng động giảm chú ý….)
P/s: Trẻ tuổi teen lo âu dễ rơi vào trạng thái trầm cảm nhẹ, loạn giấc ngủ, tự cô lập, mất động lực, lo sợ thất bại, hoặc phản ứng bằng hành vi chống đối để che giấu nỗi sợ.
✅ Chuyên gia Phạm Hiền phân tích: Nguyên nhân sâu xa phía sau
Rối loạn lo âu không chỉ đến từ một yếu tố tức thời, mà là kết quả tích tụ từ môi trường – mối quan hệ – và cách trẻ học cách xử lý cảm xúc. Những nguyên nhân nền tảng phổ biến:
=> Mối quan hệ cha mẹ – con thiếu gắn kết an toàn.
=> Cha mẹ hay kiểm soát, thiếu công nhận cảm xúc con.
=> Con trẻ Thiếu kỹ năng quản lý lo âu – càng lớn, càng dễ mất kiểm soát.
=> Con trẻ Thiếu chỗ dựa cảm xúc vững chắc trong giai đoạn khủng hoảng.
P5. Sai lầm trong chẩn đoán và trị liệu rối loạn lo âu ở trẻ
Dưới đây là tổng hợp chi tiết về các sai lầm phổ biến trong chẩn đoán và trị liệu rối loạn lo âu ở trẻ, theo góc nhìn của chuyên gia Phạm Hiền – người có nhiều năm kinh nghiệm làm việc với trẻ em có vấn đề tâm lý và hành vi cùng với sự va đập tương tác với rất nhiều các cung bậc quan điểm, tư duy, tâm lý của cha mẹ trong các độ tuổi
✅ Sai lầm trong chẩn đoán rối loạn lo âu ở trẻ
1. Nhầm lẫn giữa tính cách nhút nhát và rối loạn lo âu
=> Nhiều cha mẹ và thậm chí một số nhà giáo dục xem nhẹ những biểu hiện lo âu dai dẳng, cho rằng đó chỉ là do “tính nhút nhát”, “còn nhỏ”, hoặc “lớn sẽ hết”.
=> Thực tế: nếu sự nhút nhát đi kèm né tránh xã hội, ám ảnh kiểm tra, vấn đề thể chất khi lo lắng (đau đầu, nôn mửa, mất ngủ…) thì đó có thể là rối loạn lo âu.
2. Chẩn đoán lệch hướng sang các vấn đề hành vi khác
=> Trẻ lo âu có thể biểu hiện qua tăng động, chống đối, mất kiểm soát cảm xúc, khiến nhiều chuyên gia hoặc phụ huynh nhầm lẫn với ADHD hay ODD (rối loạn chống đối).
=> Chẩn đoán sai khiến can thiệp, trị liệu sai cách chỉ đi vào biểu hiện bên ngoài mà không đi sâu từng ngóc ngách của gốc rễ nội tại lo âu bên trong.
3. Chỉ dựa vào biểu hiện bề mặt mà không đánh giá cảm xúc nội tâm
=> Một số trẻ lo âu nhưng che giấu bằng vẻ ngoài cười nói, giỏi giang, ngoan ngoãn.
=> Nếu không đánh giá chuyên sâu, sẽ bỏ qua nỗi sợ, áp lực, cầu toàn, sợ sai đang âm thầm hủy hoại trẻ.
4. Không phân biệt các dạng rối loạn lo âu cụ thể
=> Rối loạn lo âu không phải một khái niệm chung. Có nhiều thể loại: Rối loạn lo âu chia ly, Ám ảnh xã hội, Lo âu lan tỏa (GAD), Ám ảnh cưỡng chế (OCD), Hoảng loạn (panic disorder), Nếu không xác định đúng thể loại, phác đồ trị liệu có thể không hiệu quả. Sai lầm trong trị liệu rối loạn lo âu ở trẻ
=> Can thiệp quá trễ: Nhiều cha mẹ chờ đợi quá lâu, hy vọng con sẽ “tự qua”, dẫn đến tình trạng lo âu chuyển sang rối loạn trầm cảm, ám ảnh cưỡng chế, tự hại…Rối loạn lo âu cần can thiệp sớm – càng sớm hiệu quả càng cao.
=> Tập trung trị liệu trẻ mà không thay đổi môi trường gia đình. Chuyên gia Phạm Hiền thường nói “Nếu cha mẹ không thay đổi, trị liệu cho con chỉ là ‘giải cứu tạm thời’”. Nhiều ca lo âu ở trẻ xuất phát từ áp lực gia đình, cách nuôi dạy, hoặc bất ổn trong mối quan hệ cha mẹ – con. Nếu không xử lý yếu tố này, trị liệu sẽ không bền vững.
=> Lạm dụng thuốc khi chưa cần thiết: Một số cơ sở trị liệu hoặc bác sĩ kê thuốc an thần, giảm lo âu ngay từ đầu. Điều này có thể gây lệ thuộc và che giấu triệu chứng mà không xử lý gốc rễ tâm lý. Chuyên gia Phạm Hiền chủ trương ưu tiên trị liệu tâm lý – nhận thức – hành vi trước khi can thiệp y khoa (nếu không bắt buộc).
=> Áp dụng phương pháp một chiều, không cá nhân hóa: Trị liệu rối loạn lo âu cần cá nhân hóa theo độ tuổi, tính cách, nguyên nhân gốc rễ, không thể dùng công thức chung. Một số nơi sử dụng các công cụ dạy kỹ năng, bài tập nhóm chung chung, thiếu theo dõi chuyên sâu, khiến trẻ không tiến bộ hoặc còn nặng thêm.
=> Ép trẻ “can đảm lên”, “phải vượt qua”, “đừng yếu đuối”. Những lời nói tưởng như động viên này thực chất tạo thêm áp lực. Trẻ có thể cảm thấy mình “kém cỏi” hơn, giấu lo âu, và dần dẫn tới tự ti, trầm cảm.
5. Sai lầm khi chẩn đoán và trị liệu đơn lẻ chỉ trên biểu hiện bên ngoài của con
=> Đánh giá trẻ bằng công cụ chuyên sâu, phỏng vấn cả cha mẹ – trẻ – những người liên quan
=> Không chỉ “trị” trẻ mà đồng thời “điều chỉnh” môi trường sống của trẻ, đặc biệt là cách cha mẹ giao tiếp, yêu cầu và kỳ vọng.
=> Kết hợp: trị liệu tâm lý – can thiệp hành vi – hướng dẫn kỹ năng – xây dựng lại nền tảng cảm xúc.
=> Khi cần phải có sự phối kết hợp giữa bác sỹ lâm sàng và trị liệu chuyên gia tâm lý
✅ Sai lầm khi Không thực hiện chấp nhận để cho con chẩn đoán và can thiệp
Việc cha mẹ biết con có nguy cơ rối loạn lo âu nhưng không can thiệp hoặc can thiệp sai cách là một trong những nguyên nhân khiến tình trạng của trẻ trở nên trầm trọng, kéo dài và khó điều trị hơn. Dưới đây là tổng hợp các sai lầm thường gặp của cha mẹ trong giai đoạn biết nhưng không ngăn chặn, theo phân tích từ chuyên gia tâm lý Phạm Hiền:
1. Sai lầm nghiêm trọng của cha mẹ khi đã biết mà không hành động
=> Cho rằng “con sẽ tự vượt qua” hoặc “lớn lên sẽ khác”: Đây là niềm tin sai lệch phổ biến: nhiều cha mẹ nghĩ rằng lo lắng chỉ là tính cách tạm thời. Tuy nhiên, theo chuyên gia Phạm Hiền “Nỗi lo nếu bị nuôi lớn cùng đứa trẻ, nó sẽ trở thành một phần tính cách tiêu cực cố định.”-
=> Hệ quả: Trẻ bị kéo dài lo âu, hình thành các hành vi phòng vệ, né tránh, tự ti, hoặc nặng hơn là rối loạn cảm xúc.
P/s: Nếu cha mẹ biết mà không hành động thì không chỉ là bỏ lỡ cơ hội vàng, mà còn là tiếp tay cho nỗi sợ hủy hoại con mình từng ngày.”
2. Đổ lỗi cho môi trường thay vì hành động
=> Một số cha mẹ biết con đang lo âu, nhưng chỉ tập trung trách móc nhà trường, bạn bè, chương trình học… mà không thay đổi bản thân. Ví dụ: “Tại cô giáo khó quá”, “Tại chương trình học nặng”, “Tại con bé hàng xóm bắt nạt”… nhưng cha mẹ không đồng hành, không xử lý triệt để.
=> Hệ quả: Trẻ tiếp tục sống trong môi trường thiếu hỗ trợ, càng thêm hoang mang và bị động.
P/s: Biết nguy cơ sớm nhưng không ngăn chặn là trách nhiệm thuộc về người lớn, không phải lỗi của đứa trẻ.
3. Đè nén cảm xúc của con bằng ngôn từ tiêu cực
=> Những câu như: “Chuyện có gì mà con phải lo?”, “Mạnh mẽ lên, đừng nhút nhát nữa”, “Con chỉ làm khổ bố mẹ thôi đấy!”, “Con mà như vậy thì hỏng cả tương lai!”
=> Hệ quả: Các câu này không làm con bớt lo, mà còn khiến trẻ cảm thấy bản thân là vấn đề, cảm thấy tội lỗi, áp lực và xấu hổ.
P/s: Mỗi biểu hiện lo âu lặp lại trong thời gian dài cần được xem như một tín hiệu cầu cứu, không nên xem nhẹ.
4. Tìm cách né tránh vì sợ… “bị mang tiếng con có vấn đề”
=> Một số cha mẹ dù biết con lo âu rõ rệt nhưng không đưa đi đánh giá tâm lý hoặc trị liệu, vì: Sợ hàng xóm, người quen biết chuyện. Xấu hổ vì cảm thấy “bố mẹ thất bại”.
=> Hệ quả: Đây là một định kiến nguy hiểm vì càng che giấu, càng để trẻ chịu đựng một mình khiến con càng phát triển con thú hoang bị thương gai góc hơn
5. Chỉ tập trung dạy học, bỏ quên cảm xúc
=> Trẻ đang có dấu hiệu lo âu nhưng vẫn bị ép học, thi, luyện kỹ năng mà không ai hỏi cảm giác bên trong của trẻ. Chuyên gia Phạm Hiền gọi đây là tình trạng “nuôi con như nuôi một cái máy” – chỉ lo đầu ra mà quên mất tâm lý.
=> Hệ quả: Lo âu thành ám ảnh, trẻ dần ghét việc học, ghét bản thân, mất động lực sống.
6. Lựa chọn sai người can thiệp, trị liệu
=> Có cha mẹ biết con cần hỗ trợ nhưng: Gửi con đi học kỹ năng nơi không chuyên về trị liệu. Chọn người “nổi tiếng trên mạng” thay vì người có chuyên môn sâu. Tin vào mẹo dân gian, tâm linh, thay vì can thiệp trị liệu tâm lý chuẩn.
=> Hệ quả: Gây trì hoãn thời gian vàng để phục hồi, khiến lo âu chuyển hóa thành trầm cảm, OCD, PTSD…
Cha mẹ cần làm gì khi đã biết con có nguy cơ?
=> Không trì hoãn: Đưa trẻ đi đánh giá tâm lý bài bản và toàn diện các chỉ số phát triển khác
=> Chấp nhận sự thật, không phủ nhận hoặc tô hồng vấn đề.
=> Thay đổi môi trường giao tiếp, giảm áp lực, tăng kết nối cảm xúc.
=> Chủ động trị liệu cho chính mình nếu cảm xúc, kỳ vọng, áp lực của cha mẹ là nguyên nhân.
=> Đồng hành với chuyên gia, không giao phó toàn bộ rồi “rút lui”.
✅ Sai lầm khi trị liệu rối loạn lo âu cho con
Dưới đây là tổng hợp chi tiết các sai lầm khi trị liệu rối loạn lo âu cho con, được chuyên gia tâm lý Phạm Hiền chỉ ra qua nhiều ca thực tế mà chị và cộng sự đã tiếp cận – đặc biệt là các trường hợp trị liệu thất bại hoặc kéo dài vì sai hướng ngay từ đầu.
1. Sai lầm phổ biến khi trị liệu rối loạn lo âu cho con
=> Trị liệu một chiều – chỉ tập trung vào đứa trẻ: Nhiều phụ huynh nghĩ rằng chỉ cần “đưa con đến gặp chuyên gia” là đủ, trong khi Nguồn gốc của rối loạn lo âu thường nằm trong cách cha mẹ nuôi dạy, môi trường gia đình, hoặc áp lực học tập. Nếu cha mẹ không đồng hành, không thay đổi chính mình, trị liệu sẽ không bền, trẻ cứ tái phát lo âu.
P/s: Thực tế Một bé gái tiểu học có biểu hiện lo âu xã hội kéo dài. Sau 3 tháng trị liệu, tiến triển rất tốt. Nhưng khi về nhà lại tiếp tục bị mẹ chê bai, ép học, so sánh với anh trai. Sau 2 tuần, bé sụp đổ hoàn toàn và mất niềm tin vào trị liệu.
2. Chọn sai người trị liệu – không đủ chuyên môn về tâm lý trẻ
=> Cha mẹ đôi khi: Gửi con đến các trung tâm kỹ năng, nơi chỉ tâm sự tạo cảm hứng và sự vuốt ve tức thời từ đó tạm thời bị ru ngủ các vấn đề mà bỏ qua cái gốc cần trị liệu nhằm ngăn chặn tái lại, nặng hơn hoặc biến chứng sang các ngưỡng nặng hơn.
=> Không phân biệt giữa giải tỏa stress, áp lực với trị liệu rối loạn lo âu thực sự khác nhau như thế nào nên cứ thấy con vui vẻ một chút tưởng phương pháp đã đúng và con đã được trị liệu thành công từ đó các chân rết của lo âu vẫn bám đuổi trong các giai đoạn tiếp theo.
=> Chuyên gia Phạm Hiền khuyến cáo: Trị liệu tâm lý không phải là truyền động lực. Nó cần kiến thức về phân tích hành vi, cơ chế lo âu, phát triển não bộ, và cá nhân hóa phác đồ
3. Mong khỏi nhanh, nóng vội, thiếu kiên trì
=> Cha mẹ thường kỳ vọng: “Gặp 1-2 buổi là phải ổn.”, “Học vài khóa kỹ năng là hết sợ.” “Sao 2 tuần rồi con vẫn còn buồn?”
=> Cần hiểu Lo âu là rối loạn cảm xúc sâu bên trong, cần thời gian và sự lặp lại tích cực. Thiếu kiên trì sẽ ngắt mạch tiến triển của trẻ, dễ gây tái phát thậm chí biến chứng
4. Ép con tham gia trị liệu mà không biết cách
=> Trẻ lo âu thường nhạy cảm và dễ phòng thủ. Nếu bị ép trị liệu mà không hiểu tại sao, trẻ sẽ: Từ chối hợp tác. Diễn vai “ngoan” để chiều lòng người lớn, nhưng không có thay đổi bên trong.
=> Phải giải thích nhẹ nhàng, đúng ngôn ngữ tuổi, giúp con hiểu rằng trị liệu là để con thoải mái, an toàn và được lắng nghe.
5. Lạm dụng thuốc an thần hoặc dùng thuốc sai cách
=> Nhiều phụ huynh hoảng sợ khi thấy con lo âu, liền tìm đến bác sĩ để kê thuốc mà không thử qua trị liệu tâm lý.
=> Một số nơi kê thuốc mạnh và kéo dài ngay từ đầu – khiến trẻ: Lệ thuộc vào thuốc. Không còn cảm nhận cảm xúc thật của mình → che giấu gốc rễ tâm lý.
=> Chuyên gia Phạm Hiền nhấn mạnh: Chỉ dùng thuốc khi trẻ thật sự cần – và phải có trị liệu tâm lý song hành
6. Giao phó toàn bộ cho chuyên gia, không duy trì ở nhà
=> Nhiều cha mẹ cho rằng: “Con đã gặp chuyên gia rồi thì về nhà vẫn cứ dạy như cũ, quát như cũ, ép học như cũ.” Nhưng thực tế, trẻ chỉ ở với chuyên gia 1–2 giờ/tuần, còn 95% thời gian là với cha mẹ và môi trường sống.
=> Nếu cha mẹ Không thay đổi lối sống, cách giao tiếp ở nhà = phá vỡ tác động tích cực của trị liệu.
7. Không đo lường tiến trình và thiếu tái thăm khám
=> Trị liệu lo âu cần có: Bản đo hành vi cảm xúc trước–trong–sau trị liệu. Theo dõi tiến triển thực tế. Thiếu đo lường = không biết trẻ tiến triển bao nhiêu, có gì cần điều chỉnh.
Hệ quả nếu trị liệu sai cách
=> Trẻ mất niềm tin vào trị liệu → từ chối hợp tác về sau.
=> Lo âu biến chứng thành trầm cảm, ám ảnh cưỡng chế, rối loạn cảm xúc.
=> Mối quan hệ con – cha mẹ rạn nứt.
=> Trẻ sống trong trạng thái phòng vệ, không dám tin ai, không dám thể hiện bản thân từ đó ngăn chặn tất cả các phát triển năng lực cá nhân khác và toàn diện của trẻ
Chuyên gia Phạm Hiền khuyến nghị trị liệu đúng cách
=> Đánh giá kỹ nguyên nhân cá nhân – gia đình – xã hội.
=> Trị liệu phải toàn diện: kết hợp trẻ – cha mẹ – môi trường.
=> Không trị liệu thay cho cha mẹ, mà trị liệu cùng cha mẹ.
=> Duy trì sau trị liệu bằng thói quen sống, giao tiếp cảm xúc lành mạnh.
=> Đo lường hiệu quả bằng bảng hành vi, biểu hiện cụ thể – không đo bằng “cảm giác chung chung”.
✅ Sai lầm khiến con nặng hơn và kéo theo nhiều biến chứng khác
Dưới đây là tổng hợp chuyên sâu về các sai lầm khiến trẻ bị rối loạn lo âu trở nên nặng hơn và kéo theo nhiều biến chứng tâm lý khác, theo cảnh báo từ chuyên gia tâm lý Phạm Hiền – người thường xuyên tiếp nhận các ca trẻ bị lo âu kéo dài, tiến triển thành các rối loạn thứ phát như trầm cảm, ám ảnh cưỡng chế (OCD), rối loạn hành vi, thậm chí tự hại.
1. Sai lầm khiến rối loạn lo âu ở trẻ trở nên trầm trọng hơn
=> Không can thiệp, trị liệu khi mới xuất hiện dấu hiệu lo âu: hiều cha mẹ thấy con có biểu hiện lo sợ, né tránh, hay lo lắng… nên Xem nhẹ, cho rằng “bình thường” hoặc Trì hoãn can thiệp với niềm tin “rồi con sẽ tự ổn”. -> Hệ quả: Rối loạn lo âu chuyển từ mức nhẹ (giai đoạn cảnh báo) sang mức nặng (rối loạn lâm sàng), ăn sâu vào thói quen và cấu trúc tâm lý của trẻ.
=> Ép con phải “mạnh mẽ”, “không được sợ”: Khi trẻ sợ đi học, sợ nói trước đám đông, sợ sai…, cha mẹ thường: La mắng “Con nhát vừa thôi!” So sánh “Sao bạn khác làm được còn con thì không? Bắt con “vượt qua nỗi sợ” bằng cách đối mặt đột ngột. -> Hệ quả: Tăng stress, trẻ cảm thấy mình yếu đuối, kém cỏi. Nỗi sợ không được chữa lành mà bị đè nén thành sự xấu hổ, sinh ra tự ti, thu mình, hoảng loạn tiềm ẩn.
=> Chối bỏ vấn đề hoặc giấu giếm với người khác: Một số cha mẹ Ngại đưa con đi trị liệu vì “sợ mang tiếng nhà có vấn đề”. Không chia sẻ tình trạng với giáo viên, người hỗ trợ và Dặn con “đừng nói với ai chuyện này”. -> Hệ quả: Trẻ thấy nỗi sợ của mình là thứ đáng xấu hổ, không được giúp đỡ. Cô lập cảm xúc, dẫn đến tăng lo âu, trầm cảm, hành vi cực đoan.
=> Gây áp lực học tập và thành tích khi con đang yếu tâm lý: Lo âu thường đi kèm sợ thất bại, sợ thi cử, sợ bị chê bai. Nhưng nhiều cha mẹ vẫn Ép con học nhiều hơn, đăng ký lớp thêm, Giao mục tiêu điểm số cao hơn. -> Hệ quả: Trẻ sụp đổ tâm lý, mất ngủ, đau bụng, buồn nôn, ác mộng kéo dài. Sinh ra ám ảnh kiểm tra, sợ thầy cô, hoặc phản ứng trốn học, nói dối, tự làm đau mình.
=> Không điều chỉnh bản thân – vẫn tiếp tục vô tình gây tổn thương: Con đang điều trị lo âu nhưng cha mẹ vẫn Nói lời tiêu cực: “Mẹ chán lắm rồi đấy”, “Con làm mẹ xấu hổ”, Cãi nhau trước mặt con, Không dành thời gian chất lượng hoặc chỉ trích thay vì chia sẻ. -> Hệ quả: Con mất niềm tin vào tình cảm gia đình, tự cô lập, hoặc biểu hiện rối loạn hành vi (chống đối, phá phách).
=> Không tuân thủ phác đồ trị liệu, tự ý bỏ giữa chừng: Trẻ đang trị liệu tâm lý mà Cha mẹ thấy con “đỡ hơn một chút” là ngưng luôn, Không đưa con đi đều đặn hoặc quên thực hành bài tập tại nhà. -> Hệ quả: Trẻ tái phát nhanh, nặng hơn. Hình thành tâm lý “Trị liệu cũng không giúp gì”, gây mất niềm tin vào hỗ trợ tâm lý sau này.
2. Biến chứng thường gặp khi lo âu kéo dài không được can thiệp, trị liệu đúng cách
=> Trầm cảm DẤU HIỆU CẢNH BÁO Mất ngủ, buồn bã, mệt mỏi, không còn hứng thú HẬU QUẢ DÀI HẠN Mất động lực sống, tự hại, tuyệt vọng
=> Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) DẤU HIỆU CẢNH BÁO Nghĩ đi nghĩ lại, lặp hành vi để giải tỏa lo HẬU QUẢ DÀI HẠN Ảnh hưởng sinh hoạt, suy giảm chất lượng sống
=> Rối loạn ăn uống DẤU HIỆU CẢNH BÁO Bỏ ăn, ăn nhiều bất thường khi lo lắng HẬU QUẢ DÀI HẠN Rối loạn thể chất, giảm miễn dịch
=> Rối loạn hành vi DẤU HIỆU CẢNH BÁO Cáu gắt, phá phách, chống đối HẬU QUẢ DÀI HẠN Gây tổn thương quan hệ – dễ bị gắn mác “hư”
=> Tự hại / ý nghĩ tự tử DẤU HIỆU CẢNH BÁO Rạch tay, đập đầu, nói “con muốn biến mất” HẬU QUẢ DÀI HẠN Rất nguy hiểm – cần can thiệp khẩn cấp
P5. Lời khuyên của chuyên gia trong cách cha mẹ nuôi dạy và ứng xử với con trẻ bị rối loạn lo âu
Lời chia sẻ từ chuyên gia Phạm Hiền: Lo âu không đáng sợ nếu được nhận diện và chữa lành đúng cách. Nhưng điều đáng sợ là cha mẹ nhìn thấy mà im lặng, biết rõ mà không thay đổi. Cần hành động sớm, đúng và đồng hành liên tục để Ngăn chặn tổn thương tâm lý dài hạn. Dưới đây là tổng hợp lời khuyên cụ thể và thực tế của chuyên gia Phạm Hiền trong việc nuôi dạy và ứng xử đúng cách với con trẻ bị rối loạn lo âu, dựa trên hàng nghìn trường hợp trị liệu tâm lý:
1. Đừng phủ nhận hoặc làm nhỏ nỗi sợ của con
=> Sai lầm phổ biến: “Có gì đâu mà sợ”, “Chuyện vớ vẩn!”, “Lớn rồi còn bày đặt yếu đuối…”
=> Lời khuyên: Thừa nhận cảm xúc của con “Mẹ hiểu con đang thấy rất sợ điều đó”. Đừng vội sửa chữa, hãy lắng nghe không phán xét
P/s: Khi trẻ lo âu, điều cần là được hiểu – không phải bị bắt ‘mạnh mẽ lên’.”
2. Tạo “vùng an toàn cảm xúc” thay vì áp lực thành tích
=> Sai lầm: So sánh con, gây áp lực học tập hoặc dùng điểm số để đánh giá
=> Lời khuyên: Hạ yêu cầu và thay bằng lời động viên nhỏ mỗi ngày “Con chỉ cần cố gắng hơn hôm qua 1 chút là tốt rồi”. Thiết lập nhịp sống đều đặn, không dồn dập
P/s: Với trẻ lo âu, thành tích không phải là đích – mà là hậu quả của sự bình ổn nội tâm.
3. Không ép buộc – mà đồng hành qua từng nỗi sợ
=> Sai lầm: Ép con đi học/làm quen/ngủ riêng một cách cứng nhắc
=> Lời khuyên: Thực hành phương pháp tiếp cận từng bước nhỏ có kiểm soát (theo mô hình “gỡ dần – rút dần – khơi dần” của chuyên gia). Dùng kỹ thuật “trao quyền chọn lựa”: như “Con muốn mẹ đứng xa hay đứng gần khi con bước vào lớp?”
P/s: Trẻ cần được quyền kiểm soát một phần trong thế giới đang khiến chúng hoảng loạn.”
4. Dạy con nhận diện và quản lý cảm xúc
=> Sai lầm: Dạy con nín khóc, kiềm chế cảm xúc
=> Lời khuyên: Dạy trẻ gọi tên cảm xúc “Con đang thấy lo – ở đâu trong người con đang lo?”. Dạy kỹ năng thở chậm, hình dung an toàn hoặc nói chuyện với “nỗi sợ”
P/s: Lo âu không thể biến mất nếu trẻ không hiểu nó là gì và cách đối thoại với nó.
5. Cha mẹ cần ổn định cảm xúc của chính mình trước
=> Sai lầm: Phản ứng nóng nảy, mất kiên nhẫn hoặc hoảng loạn cùng con
=> Lời khuyên: Tự trấn an bản thân bằng câu nội tâm: “Đây là cảm xúc của con – mình là điểm tựa, không phải là phản chiếu cảm xúc.” Gương mặt – giọng nói – hành vi của cha mẹ là liều thuốc giảm lo đầu tiên cho con
P/s: Con không lo nếu cha mẹ bình an. Con hoảng loạn nếu cha mẹ chỉ dạy bằng giận dữ
6. Chủ động trị liệu sớm – đừng “để con lớn rồi sẽ qua”
=> Sai lầm: Chờ đợi, trì hoãn, nghĩ “đây là giai đoạn phát triển thôi”
=> Lời khuyên: Chủ động tham vấn chuyên gia khi có từ 3 dấu hiệu lo âu trở lên. Trị liệu cảm xúc không làm con “yếu đuối hơn”, mà giúp con vững hơn từ bên trong
P/s: Không có đứa trẻ lo âu nào tự lành nếu cha mẹ bị động. Tâm lý chỉ phục hồi nếu có dẫn dắt đúng lúc.
LỜI NHẮN CỦA CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN: Một đứa trẻ rối loạn lo âu không cần cha mẹ hoàn hảo, mà cần người hiểu, người vững, và người đi cùng qua những nỗi sợ chưa có tên.”
B – GÓC NHÌN CỦA PHỤ HUYNH GÓC NHÌN CỦA PHỤ HUYNH VỀ LIỆU PHÁP TRỊ LIỆU TÂM LÝ CỦA CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN KHI ĐƯA CON TRẺ ĐẾN TEST CHẨN ĐOÁN VÀ TRỊ LIỆU RỐI LOẠN LO ÂU
P1. Chuyên gia phạm hiền chẩn đoán rối loạn lo âu khác biệt như thế nào từ góc nhìn của phụ huynh
Từ góc nhìn của nhiều phụ huynh từng đưa con đến gặp chuyên gia tâm lý Phạm Hiền, cách chị chẩn đoán và nhìn nhận rối loạn lo âu ở trẻ khác biệt rõ rệt so với cách tiếp cận truyền thống, đặc biệt ở ba khía cạnh: tốc độ – chiều sâu – khả năng nhìn xuyên gốc rễ vấn đề.
1. Chẩn đoán nhanh – sắc – chính xác đến mức “giật mình”
=> Không dùng các bảng test máy móc đơn thuần, chuyên gia thường:
=> Quan sát hành vi vi mô của trẻ (ánh mắt, tư thế, phản xạ khi bố mẹ gọi, khi bị giục…).
=> Đọc ngôn ngữ cơ thể và năng lượng cảm xúc.
=> Test toàn diện các chỉ số năng lực tự phát triển của con trẻ
=> Phân tích đồng thời hành vi của cha mẹ đi cùng để truy nguyên từ hệ nuôi dưỡng.
P/s: Chị ấy không cần nói chuyện với con quá nhiều, chỉ cần 15 phút đến 30 phút quan sát là chỉ ra đúng luôn những thứ mà mình giấu hoặc chưa từng nghĩ đến!. Tôi bất ngờ vì chuyên gia không hỏi han vòng vo mà đi thẳng vào bản chất, thường nói đúng những điều “mình biết nhưng không dám thừa nhận”.
2. Chẩn đoán không chỉ vào “triệu chứng”, mà vào “cơ chế bên trong”
=> Nơi khác nói con tôi sợ đi học. Nhưng chị Hiền nói: Không phải sợ học, mà là lo sợ không được công nhận và luôn nghĩ mình kém. Đó là lo âu hiện sinh khởi phát sớm.
=> Chuyên gia không đơn thuần nói “trẻ bị rối loạn lo âu xã hội”, “rối loạn phân ly”, mà sẽ bóc từng lớp: Con lo vì cái gì sâu nhất?. Ai truyền sang con nỗi sợ đó?. Con đã học được gì sai về thế giới, bản thân và cha mẹ?
=> Tôi từng đưa con đi 2 nơi, kết luận chung là rối loạn lo âu. Nhưng chỉ khi đến gặp chị Hiền, tôi mới biết: Con lo vì tôi không chấp nhận con là chính nó, chỉ ép con trở thành hình mẫu mà tôi mong muốn.”
P/s: Tôi đã thấy được sự tỉ mì Trong khi nhiều nơi chỉ dừng ở dán nhãn triệu chứng, thì chị tìm đến gốc rễ tâm lý phát sinh vấn đề.
3. Không tách riêng trẻ – luôn chẩn đoán theo hệ cha mẹ – con cái
=> Chị bảo con tôi không hề rối loạn. Rối loạn là từ cách tôi giao tiếp, tôi tạo áp lực, và tôi bắt con giống anh nó.
=> Tôi bất ngờ (thậm chí khó tiếp nhận lúc đầu) khi: Chuyên gia đưa cha mẹ vào trung tâm của vấn đề, không chỉ đổ hết lên đứa trẻ. Bác ấy xem xét luôn mô hình giao tiếp – mối quan hệ – kỳ vọng – lịch học – nếp sống của gia đình.
P/s: Chẩn đoán của chị mang tính liên kết hệ thống: không phải “trẻ bị lo âu”, mà là “trẻ đang phản ứng đúng với một hệ thống sai”.
4. Lời chẩn đoán đôi khi gây sốc – nhưng đánh thức nhận thức phụ huynh
=> Chuyên gia Phạm Hiền thường nói thẳng: Con không cần trị liệu, người cần chữa là bố mẹ. Nếu không thay đổi, tôi không tiếp nhận.”
=> Nhiều phụ huynh phản ánh: Họ bị chạm mạnh, thậm chí khóc, bối rối, giận, nhưng sau đó thức tỉnh. Chị không làm hài lòng phụ huynh như kiểu khách hàng được chiều chuộng mà chọn nói thật, đúng và có mục tiêu giải cứu đứa trẻ.
=> Chị như người đọc được tâm trí của gia đình – không chỉ con, mà cả tôi và chồng.
P/s: Trong khi một số nơi nói nhẹ nhàng để giữ khách, chuyên gia nói đúng trọng tâm – thẳng và không khoan nhượng, vì cô ấy ưu tiên kết quả phục hồi cho trẻ, không phải làm cho cha mẹ “dễ chịu”.
4. Không lệ thuộc vào test – dùng góc nhìn lâm sàng sâu sắc
=> Chị ấy không phát bài test giấy , mà nhìn vào môi trường sống, hành vi vi mô, biểu hiện khi phỏng vấn. Nếu có làm Test trên máy cũng chỉ là phụ trợ để nắm bắt mức độ cảm nhận của cha mẹ, của con về vấn đề của con như thế nào mà thôi.
=> Chị ưu tiên: Tiếp xúc không chính thức với trẻ qua trò chuyện. Quan sát bố mẹ khi nói về con. Đọc biểu hiện con trong khi không được chú ý
P/s: Không phụ thuộc máy móc hoặc mẫu đo có sẵn. Tất cả được cá nhân hóa theo từng đứa trẻ – từng gia đình.
✅ Vì sao phụ huynh nói chẩn đoán của chuyên gia Phạm Hiền là khác biệt
=> Cách tiếp cận THÔNG THƯỜNG Dựa vào bảng test – mô tả hành vi CHUYÊN GIA Quan sát hệ thống – hành vi vi mô – cảm xúc gốc
=> Trung tâm phân tích THÔNG THƯỜNG Tập trung vào trẻ CHUYÊN GIA Phân tích mối liên kết cha mẹ – con – môi trường
=> Tốc độ THÔNG THƯỜNG Qua vài buổi mới đưa ra kết luận CHUYÊN GIA Quan sát sâu ngay từ buổi đầu
=> Cách nói THÔNG THƯỜNG Nhẹ nhàng, thuyết phục CHUYÊN GIA Thẳng, rõ, nhiều khi gây sốc – nhưng đánh thức
=> Mục tiêu THÔNG THƯỜNG Xác định triệu chứng và hướng trị liệu CHUYÊN GIA Gỡ rối gốc rễ hệ nuôi dạy để cứu đứa trẻ thật sự
P2. Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền trị liệu rối loạn lo âu khác biệt như thế nào từ góc nhìn của phụ huynh
Từ góc nhìn của nhiều phụ huynh đã từng trực tiếp cho con trị liệu rối loạn lo âu với chuyên gia tâm lý Phạm Hiền, sự khác biệt trong phương pháp trị liệu không chỉ đến từ chuyên môn, mà còn nằm ở cách chị “can thiệp toàn diện” cả hệ cha mẹ – con – môi trường sống.
- Không trị liệu riêng cho trẻ – mà trị liệu cả hệ cha mẹ – con cái
=> Chuyên gia thường nói với các cha mẹ đưa con đến : Nếu chỉ làm trị liệu với con, thì sau này con sẽ lại lo vì chính cha mẹ. Nên chị không trị liệu một chiều chỉ con. Chuyên gia không nhận trị liệu cho trẻ nếu cha mẹ không hợp tác hoặc trốn tránh trách nhiệm.
=> Trị liệu luôn đi song hành: Trị liệu vấn đề cho con – Trị liệu quan điểm nuôi dạy và cách nuôi dạy của cha mẹ – Trị liệu tâm lý cho cha mẹ nếu họ là nguồn áp lực tân lý cho bản thân và cho con
=> Lúc đầu tôi còn cáu vì chị ‘khó tính, nói thẳng’, nhưng sau đó mới hiểu chị không nể ai, vì chị chọn cứu đứa trẻ – không phải làm vừa lòng người lớn.
P/s: Khác biệt: Nhiều nơi trị liệu “cắt riêng trẻ ra khỏi hoàn cảnh sống”, trong khi chị coi môi trường gia đình là yếu tố không thể tách rời để trị liệu bền vững.
- Không chạy theo triệu chứng – mà truy nguyên gốc rễ nỗi lo
=> Truy tìm đến cùng các ngóc ngách nguyên nhân gốc rế: Tôi tưởng con sợ kiểm tra là do sợ bị điểm kém. Nhưng chị bóc ra là do tôi từ nhỏ cứ quát mỗi lần con sai. Con bị ám ảnh sai = thất bại.
=> Chuyên gia phân tích sâu: Nỗi lo đó xuất phát từ trải nghiệm gì?. Nó hình thành niềm tin lệch lạc nào trong con?. Trẻ đã phòng vệ bằng cách nào – và có nguy cơ biến chứng gì?
P/s: Khác biệt: Không “đắp kỹ năng”, không dùng lời an ủi máy móc. Mọi can thiệp đều phải tác động đến niềm tin cốt lõi bên trong trẻ.
- Can thiệp bằng hành động cụ thể – không dùng lý thuyết suông
=> Chuyên gia không bắt con nói về nỗi sợ mà giao tiếp thông thường nhưng có chủ đích để nhận ra con đang như thế nào từ tư duy, tâm lý, cảm xúc, tính cách, thái độ, hành vi, khả năng…
=> Chuyên gia dùng Kỹ thuật giải cảm xúc tầng sâu: giúp trẻ gọi tên cảm xúc bị kìm nén. Dạy trẻ kỹ năng tự xoa dịu, nói chuyện với nỗi sợ, chấp nhận bản thân.
=> Không chỉ con tôi khỏi lo âu, mà chính tôi cũng hiểu ra cách yêu con không làm con sợ.
P/s: Khác biệt: Trẻ không bị hỏi han điều tra, không bị phán xét, mà được dẫn dắt mở lòng qua các hoạt động tự nhiên.
- Luôn đánh giá tiến trình rõ ràng – không mơ hồ
=> Sau mỗi giai đoạn, chị đưa bảng hành vi, chỉ rõ con đã thay đổi chỗ nào, còn yếu ở đâu. Không mập mờ kiểu “tốt hơn rồi” chung chung.”
=> Tiến trình được đo lường bằng: Đánh giá đo nhận thức – cảm xúc – hành vi. Ghi nhận chi tiết phản ứng trong tình huống thực tế của con và Phản hồi từ chính cha mẹ và môi trường giáo dục để trị liệu cho con từng biểu hiện nhỏ trong từng vấn đề lớn con gặp phải.
P/s: Khác biệt: Trị liệu có lộ trình – mục tiêu – điểm đo cụ thể, không mang tính “cảm tính” hay “cứ làm tới đâu hay tới đó”.
- Không an ủi – mà xây bản lĩnh vượt lo âu
=> Chuyên gia không hề dỗ con kiểu: không sao đâu. Bác ấy sẽ bảo: lo là bình thường. Nhưng lo không kiểm soát thì phải học cách xử lý. Chuyên gia đã giúp con tin rằng mình đủ sức xử lý nỗi sợ đó.
=> Con Trẻ được dạy: Kỹ thuật giảm phản ứng cơ thể khi lo, Cách đối thoại với chính nỗi sợ thay vì né tránh, Tự lập lại lối nghĩ tích cực – phản tư nội tâm.
=> Tôi đi nhiều nơi, ai cũng dạy con phải dũng cảm. Nhưng lần đầu tiên tôi thấy có người dạy con chấp nhận nỗi sợ để đi xuyên qua nó – chứ không phủ nhận nó.
P/s: Khác biệt: Không tạo sự lệ thuộc cảm xúc, mà giúp trẻ tự chủ tinh thần – xây năng lực phục hồi tâm lý.
✅ Vì sao phụ huynh nói trị liệu tâm lý rối loạn lo âu của chuyên gia Phạm Hiền là khác biệt
=> Trị liệu ai? THÔNG THƯỜNG Chỉ trẻ CHUYÊN GIA Trẻ + cha mẹ + môi trường
=> Cách can thiệp THÔNG THƯỜNG Dạy kỹ năng, an ủi CHUYÊN GIA Bóc gốc rễ nỗi lo, xây bản lĩnh
=> Công cụ THÔNG THƯỜNG Test, hỏi – đáp CHUYÊN GIA Trị liệu qua chơi, tình huống thực tế
=> Tính hệ thống THÔNG THƯỜNG Tách biệt cá nhân CHUYÊN GIA Liên kết hệ cha mẹ – giáo viên – trẻ
=> Phản hồi phụ huynh THÔNG THƯỜNG “Con đỡ rồi thì thôi” CHUYÊN GIA “Cả nhà thay đổi để con phục hồi bền”
P3. Chuyên gia phạm Hiền thường cảnh báo thẳng thắn cha mẹ như thế nào khi chẩn đoán và trị liệu
Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền nổi tiếng với phong cách cảnh báo thẳng thắn, không né tránh, không nói giảm nói tránh, đặc biệt trong các buổi chẩn đoán và trị liệu tâm lý cho trẻ em. Nhiều phụ huynh từng chia sẻ cảm giác “choáng”, “bị sốc”, thậm chí “đau” khi nghe chị nói, nhưng sau đó thừa nhận rằng những lời cảnh báo ấy đã đánh thức họ thật sự.
- Những câu cảnh báo “gây sốc” nhưng cực kỳ thức tỉnh
=> Con không bị bệnh. Mà chính cha mẹ đang tạo ra bệnh cho con, nên Nếu cha mẹ không thay đổi, thì cho dù tôi có trị liệu bao nhiêu lần, con vẫn sẽ quay về điểm xuất phát. – P/s: Câu nói này thường được chị đưa ra khi: Trẻ có dấu hiệu lo âu nhưng gốc rễ đến từ cách nuôi dạy, giao tiếp, áp lực vô hình của gia đình. Phụ huynh đổ lỗi cho con, phủ nhận vai trò của mình.
=> Tôi không trị liệu nếu cha mẹ không chịu hợp tác. Trẻ không thể tự phục hồi trong một hệ độc hại, nên Nếu anh/chị chỉ muốn gửi con đến để tôi sửa, thì xin lỗi . – P/s: Cảnh báo này xuất hiện khi: Cha mẹ muốn “khoán trắng” cho chuyên gia, không tham gia điều chỉnh môi trường sống. Cha mẹ không sẵn sàng thay đổi cách cư xử, vẫn giữ thói quen áp đặt, chê bai, so sánh.
=> Đừng hỏi con lo âu vì cái gì. Hãy hỏi: mình đã khiến con lo âu từ khi nào, nên Trẻ không biết tự nhiên mà lo. Lo âu là học được. Và người dạy đầu tiên chính là cha mẹ. – P/s: Câu nói này Nhằm cảnh báo những phụ huynh: Hay dọa nạt, tạo áp lực thành tích, kìm nén cảm xúc con nhưng không nhận ra. Cứ đòi “trị liệu lo âu cho con”, trong khi bản thân lại là người gieo mầm lo âu đó.
=> Tôi nói thật: nếu tiếp tục thế này, con anh/chị có thể phát triển trầm cảm, rối loạn nhân cách hoặc tự hại. Chị nói đến đâu, tôi rùng mình đến đấy. Vì đúng quá. Và đau quá. – P/s: Khi chị thấy trẻ có biểu hiện: Tự ti, né tránh, thu mình, căng thẳng kéo dài, nhưng cha mẹ lại xem nhẹ hoặc trì hoãn can thiệp, trị liệu. Chị nói rõ nguy cơ, không che giấu, không trấn an giả tạo.
=> Không phải con quá nhạy cảm. Là vì môi trường sống của con quá khắt khe để có thể nhạy cảm mà vẫn sống yên ổn. P/s: Chị nói đúng tim đen nhà tôi. Tôi từng trách con yếu đuối, nhưng hóa ra chính mình mới là người khiến con sợ thế giới.”
=> Con không thiếu kỹ năng, con thiếu lòng tin vào chính mình – vì bị bẻ gãy quá sớm. – P/s: Câu nói này với phụ huynh cứ tìm lớp kỹ năng, mà không chữa cái lõi tâm lý tự ti.
=> Con không cần động lực – con cần được công nhận và được phép sai. – P/s: Chuyên gia nói Khi cha mẹ ép con phải giỏi, phải hơn người khác.
=> Bố mẹ không sửa hành vi hay cảm xúc từ ngọn làm gì . Bố mẹ sửa nhận thức gốc để hành vi tự thay đổi.” – P/s: Chuyên gia nói Khi cha mẹ đòi “trị con bướng”, “trị con cãi lời”.
=> Đừng bắt tôi huyễn hoặc để chiều phụ huynh như khách hàng. Tôi chỉ cứu trẻ khi khiến bố mẹ thức tỉnh thôi. Ghét tôi cũng được vì sẽ nghĩ đến những gì tôi nói mà nhắc bản thân thức tỉnh thay đổi mà tự chữa cho con càng tốt. – P/s: Câu nói này rất khốc liệt khi chuyên gia không nghe và nghĩ đến vấn đề của con mà chỉ muốn bản thân được chuyên gia nói nói nhẹ, được làm vừa lòng.
- Vì sao chuyên gia Phạm Hiền chọn cách nói thẳng
=> Chuyên gia từng nói rõ: Cha mẹ phải sốc mới tỉnh. Nếu tôi nói nhẹ, họ sẽ tiếp tục trì hoãn. Mà với một đứa trẻ lo âu, mỗi ngày trôi qua là thêm một vết thương âm thầm.
=> Chuyên gia chọn: Ưu tiên cứu trẻ trước, dù có làm mất lòng phụ huynh. Chữa tận gốc – không làm hình thức. Không chiêu trò giữ phụ huynh như giữ khách hàng mà chuyên gia chỉ giữ kết quả nhanh nhất, bền nhất cho con trẻ để ngăn chặn các vấn đề biến chứng hoặc nặng hơn.
- Tác dụng thực tế từ lời cảnh báo thẳng của các phụ huynh
=> Tôi mất ngủ cả đêm sau khi nghe chị nói. Nhưng sáng hôm sau, tôi đã nhìn con khác đi vì tôi phải nghĩ vào nó một cách nghiêm túc trên chỉ dẫn thật có phần gây sốc của chuyên gia
=> Ban đầu thấy bị xúc phạm. Sau 2 tuần, tôi thấy biết ơn. Chuyên gia giúp tôi cứu con và chính gia đình mình. Vì tức giận nên tôi đã nổi tính hiểu thắng và vào đúng bất của bác ấy muốn tôi phải nhìn vào sự thật kinh khủng nhất và dẹp được cái tôi gai góc của tôi để giúp con.
=> Không ai dám nói với tôi như bác Phạm Hiền cả. Nhưng cũng không ai làm cho con tôi thay đổi rõ như thế. Bác ấy đánh trúng vào sự trốn tránh không dám nhìn vào sự thật của con để giúp con và không dám nhìn vào vấn đề từ cha mẹ đã gây ra cho con để giúp nó.
=> Thẳng – rõ – không vòng vo ĐÍCH ĐẾN Tạo tác động đủ mạnh để cha mẹ nhìn lại mình
=> Nói đúng bản chất – không chiều lòng ĐÍCH ĐẾN Gỡ gốc rối thay vì xoa dịu tạm thời
=> Dám chỉ lỗi của cha mẹ ĐÍCH ĐẾN Đánh thức sự thay đổi từ người lớn, không đổ hết lên trẻ
=> Ưu tiên kết quả cho trẻ ĐÍCH ĐẾN Chọn giải pháp bền vững hơn là chiều theo cảm xúc người lớn
P4. Khi đến chẩn đoán và trị liệu rối loạn lo âu cần chú ý điều gì
Khi đưa trẻ đến chẩn đoán và trị liệu rối loạn lo âu, có rất nhiều yếu tố cha mẹ cần đặc biệt chuẩn bị và chú ý, để đảm bảo quá trình trị liệu diễn ra hiệu quả, không bị cản trở, và trẻ được hỗ trợ đúng cách, đúng thời điểm.
- Trước khi đến chẩn đoán – cha mẹ cần chuẩn bị gì?
✅ Không che giấu – không tô hồng – không định hướng trẻ nói dối
=> Hãy để con đến như chính con đang sống. Đừng dạy con ‘phải nói thế này với cô’.” –
=> Cha mẹ tuyệt đối không nói trước với con rằng “con bị bệnh” hay “mẹ dẫn con đi khám” gây lo sợ thêm.
=> Không gài con: “Con đến phải ngoan nhé, phải nói cô con vui lắm…”
=> Hãy nói tự nhiên: “Mẹ dẫn con đến chơi với một cô giỏi hiểu trẻ, con cứ chia sẻ điều con nghĩ.”
✅Tự chuẩn bị tâm thế bị “nói thẳng” – chấp nhận sự thật
=> Rất nhiều cha mẹ bị sốc khi chuyên gia chỉ ra rằng chính mình là nguyên nhân gây lo âu cho con.
=> Hãy đến với tâm thế: Không đổ lỗi cho con. Sẵn sàng nhìn lại mình. Lắng nghe và phản hồi để hiểu thay bằng chống chế, bao biện.
=> Chuyên gia chỉ đưa ra chi tiết các vấn đề của con khi cha mẹ dám dừng lại để lắng nghe thật sự Nếu thấy thâm thế cha mẹ không ổn chuyên gia sẽ chỉ nói qua loa để không chạm vào sự bất ổn trong họ.
=> Đừng không lắng nghe, cảm xúc, thái đội yếu kém nhưng bắt chuyên gia tâm lý phải làm tâm lý được cho mình lắng nghe thì đấy mới là chuyên gia
✅Ghi lại lịch sử hành vi và cảm xúc của con
=> Chuẩn bị ghi chép hoặc nhớ rõ: Các dấu hiệu kéo dài bao lâu? Diễn ra ở đâu? Mức độ?. Các sự kiện khởi phát đáng chú ý?. Thái độ của con với bản thân, học tập, xã hội?
- Trong quá trình chẩn đoán – cần chú ý điều gì?
✅ Không can thiệp khi chuyên gia đang quan sát con
=> Khi con trò chuyện, chơi, thể hiện cảm xúc, tuyệt đối không chen vào, sửa lời con, bao biện cho con.
=> Đừng cắt ngang: “Không phải vậy đâu cô ơi”, “Con nói sai rồi”, “Không phải con nó thế…”
P/s: Với chuyên gia Phạm Hiền Con không cần người bênh. Con cần được hiểu đúng.”
✅Tránh khen – chê con khi ở cạnh chuyên gia
=> Những câu như: “Con đấy, nhát lắm”, “Bình thường nó không chịu học đâu”, “Hôm nay lạ thật, chứ nhà thì nó không mở miệng”
P/s: Với chuyên gia Những lời này ảnh hưởng đến cảm xúc, sự tin tưởng và lòng tự tôn của con.
✅Ghi chép lời chuyên gia – đừng chỉ nghe cảm tính
=> Nhiều phụ huynh chỉ “cảm thấy mình bị trách”, rồi rút về mà không hành động.
=> Hãy: Ghi ra 3 điểm chính chuyên gia nói về nguyên nhân – sai lầm – giải pháp. Ghi lại những việc cần làm từ phía cha mẹ chứ không chỉ từ chuyên gia làm gì cho con
✅ Sau chẩn đoán – trị liệu, cha mẹ cần làm gì?
=> Thay đổi thật – không chỉ cam kết miệng: Nếu anh chị nói sẽ thay đổi, thì đứa trẻ sẽ tin. Nhưng nếu anh chị làm ngược, thì trẻ sẽ gãy niềm tin vĩnh viễn.”
=> Trẻ chỉ phục hồi khi môi trường xung quanh thay đổi thật sự.
=> Đừng chỉ đợi chuyên gia thay đổi con – hãy bắt đầu từ chính bản thân mình.
✅Không hỏi dồn con sau buổi trị liệu
=> Nhiều cha mẹ về nhà hỏi tới tấp:
❌ “Chuyên gia nói gì con?”
❌ “Con có ngoan không?”
❌ “Bác ấy bảo con sợ cái gì?”
=> Việc này có thể gây căng thẳng, khiến trẻ khóa lại, mất lòng tin.
=> Thay vào đó: Hãy nhẹ nhàng tạo cảm giác an toàn:
👉 “Hôm nay mẹ cảm ơn con vì đã hợp tác với bác.”
👉 “Khi nào con muốn chia sẻ, mẹ luôn sẵn sàng nghe.”
✅Tuân thủ đúng lộ trình chuyên gia đề ra – không tự ý dừng, ngắt, chuyển hướng
=> Trị liệu không giống như uống thuốc nên không thể thấy hôm nay đỡ là nghỉ.
=> Nếu tự dừng ngang, con có thể bị tái phát và nặng hơn do đứt gãy quá trình chữa lành.
P5. Con thú hoang cảnh giới bên trong trẻ rối loạn lo âu
Đặc biệt chú ý trong chẩn đoán hay trị liệu Chuyên gia từng mô tả một hình ảnh rất trực diện và gây sốc để cho cha mẹ, con thấy sự phát tác con thú hoang khi trẻ bị rối loạn lo âu không được thấu hiểu. Chuyên gia cho nhiều bậc phụ huynh khi nói về hậu quả của việc không thấu hiểu trẻ bị rối loạn lo âu: ❝ Mỗi đứa trẻ rối loạn lo âu là một con thú hoang bị dồn vào góc chuồng. Nếu bạn không nhìn thấy sự sợ hãi trong mắt nó, bạn chỉ thấy móng vuốt và tiếng gầm. ❞
- Khi không được thấu hiểu – trẻ sẽ phát tác như con thú hoang bị thương
=> Trẻ không biết dùng từ ngữ để diễn tả lo âu nên chúng bắt buộc phải gào thét, khóc, cáu giận, chống đối
=> Một số trẻ cào cấu, cắn móng tay, bứt tóc, đập phá với những hành vi khiến người lớn tưởng là “nổi loạn” hoặc “bất thường”
P/s: Chuyên gia nói: Đó không phải là đứa trẻ hư – đó là một cái đầu đang bốc cháy mà không ai dập tắt giùm nó.
- Phản ứng sinh tồn: Tấn công – Rút lui – Đóng băng
=> Khi lo âu lên đỉnh điểm mà không ai can thiệp đúng, trẻ rơi vào 1 trong 3 phản ứng bản năng:
Tấn công (Fight) LO ÂU Trẻ cáu gắt, đánh bạn, chống đối, thách thức người lớn LÌ BƯỚNG “Con này bướng quá”, “Hư không chịu được”
Rút lui (Flight) LO ÂU Trốn học, né tránh lớp học, chơi một mình, không kết bạn LÌ BƯỚNG “Lười học”, “Tự kỷ”, “Nó không biết hòa đồng”
Đóng băng (Freeze) LO ÂU Im lặng tuyệt đối, không phản ứng, mắt vô hồn, làm theo máy móc LÌ BƯỠNG “Vô cảm”, “Không có chính kiến”, “Không có động lực”
=> Càng bị hiểu sai thì trẻ càng lún sâu vào trạng thái phòng vệ bản năng. Khi đó, đứa trẻ thật sự ‘biến mất’.”
- Lo âu dồn nén → hành vi mất kiểm soát → tổn thương lâu dài
=> Trẻ không thể “lý trí” hay “tự kiềm chế” khi lo âu bùng nổ – Vì não lý trí (vùng trán) tê liệt, chỉ còn lại não nguyên thủy phản ứng bản năng
=> Nếu bị mắng, bị phạt, bị gắn mác “khó dạy”, trẻ sẽ học được 3 điều sai: Không ai hiểu mình – Cảm xúc là thứ đáng xấu hổ – Muốn tồn tại – phải gào lên hoặc… biến mất
✅ LỜI CẢNH BÁO TỪ CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN
=> Đừng hỏi vì sao một đứa trẻ từng ngoan bỗng phá phách.
=> Đừng hỏi vì sao con bạn đột nhiên im lặng, hay giận dữ thất thường.
P/s: Hãy hỏi “Lần cuối cùng con được hiểu khi lo sợ là khi nào?
✅HÀNH ĐỘNG CỦA CHA MẸ TRƯỚC “CON THÚ HOANG” ẤY
=> Khi trẻ bùng phát lo âu nên Cha mẹ nên làm:
Trẻ la hét, chống đối -> Không hét lại – giữ im lặng và ngồi gần trẻ để trẻ “dập cảm xúc”
Trẻ rút vào phòng, không nói chuyện -> Không ép nói – chỉ cần gõ cửa và nhắn: “Mẹ ở đây nếu con cần”
Trẻ nói tiêu cực về bản thân -> Không phản bác – chỉ nói: “Mẹ tin con đang rất mệt. Mẹ ở đây rồi”
=> Mỗi khi bạn giữ được sự bình tĩnh của mình – là bạn đang giúp con tin thế giới này không hoàn toàn đáng sợ.
✅THẤU HIỂU THAY VÌ TRẤN ÁP – ĐÓ LÀ CHÌA KHÓA CHỮA LÀNH
=> Không có con thú hoang nào tự nhiên sinh ra.
=> Chỉ có những đứa trẻ từng bị bỏ rơi trong cảm xúc mà không ai nhận ra.
P6. Hiểu đúng về sự khổ sở đến cô độc của đứa trẻ bị rối loạn lo âu
Hiểu đúng về sự khổ sở và cô độc của một đứa trẻ bị rối loạn lo âu là bước quan trọng đầu tiên để cha mẹ, giáo viên, và người lớn không đánh giá sai – bỏ qua – hay vô tình làm tổn thương thêm những đứa trẻ đang âm thầm gào khóc trong im lặng.
- Bên ngoài yên lặng – bên trong là cơn bão
=> Trẻ lo âu có thể không khóc, không làm loạn, nhưng bên trong lại là: Những nỗi sợ vô hình không gọi được tên – Cảm giác tim đập nhanh, buồn nôn, nhức đầu, tê tay, mồ hôi lạnh – Luôn căng thẳng dù không có nguy hiểm thực sự
=> Chuyên gia Phạm Hiền nói: Não của trẻ lo âu không biết phân biệt nguy hiểm thật và tưởng tượng. Nên trẻ khổ sở, nghẹt thở, run rẩy – dù người lớn nhìn thì thấy ‘chẳng có gì.
- Cô độc vì không ai tin – không ai hiểu
=> Trẻ thường nghe cha mẹ chúng nói : Con làm quá lên – Suy nghĩ tiêu cực hoài” – Bày đặt chuyện – Không ai khổ như con đâu” → Từ đó, trẻ rút vào vỏ ốc – không dám chia sẻ nên Dù ở giữa đám đông, trẻ vẫn thấy một mình
=> Chuyên gia Phạm Hiền hay nói với các cha mẹ để hiểu con: Không gì cô độc hơn cảm giác đau – mà không ai tin là mình đau
- Cảm xúc luôn bị giam lỏng trong sợ hãi
=> Các biểu hiện của trẻ cần tỉnh táo: Trẻ muốn đi học → nhưng sợ bị gọi lên bảng. Trẻ muốn phát biểu → nhưng run tay, sợ sai, sợ xấu hổ. Trẻ muốn kết bạn → nhưng sợ bị từ chối, bị chê, bị cười nhạo
=> Chuyên gia Phạm HIền nói: Không phải trẻ không muốn sống tốt – mà là lo âu khóa chặt mọi nỗ lực của trẻ từ bên trong.
- Càng bị hiểu sai – trẻ càng tổn thương nặng
=> Từ đó Trẻ không được thông cảm – mà còn bị phán xét, dán nhãn: Nếu trẻ cáu giận: bị cho là bướng – Nếu trẻ khóc lặng: bị cho là yếu đuối – Nếu trẻ im lặng, không phản ứng: bị cho là thờ ơ, thiếu trách nhiệm.
=> Chuyên gia Phạm Hiền cảnh báo: Một đứa trẻ lo âu bị đánh giá sai – sẽ sớm trở thành đứa trẻ nổi loạn, trầm cảm, hoặc mất kết nối cảm xúc với chính mình nên càng vô thức quẫy đạp tiêu cực cao hơn.
- Trẻ lo âu không thể “vượt qua” chỉ bằng lời nói
=> Những câu nói tưởng như động viên, thật ra chỉ tăng cảm giác bất lực cho trẻ: Tự tin lên con – Bỏ qua đi, có gì đâu mà lo – Cố lên, đừng nghĩ nữa”
=> Chuyên gia Phạm Hiền cảnh báo: Trẻ không cần được ép “vượt qua”, mà cần được dắt tay để đi qua từng bước nhỏ
HÃY NHỚ RẰNG:
✅ Không có đứa trẻ nào chọn cách sống lo âu, khổ sở, cô lập. Nhưng có hàng trăm đứa trẻ phải chịu đựng vì người lớn không đủ hiểu, không đủ lắng nghe, không đủ kiên nhẫn.
✅ Chúng ta không cần làm gì vĩ đại để chữa lành trẻ. Chỉ cần tin con – ở cạnh con – và đi chậm lại cùng con.
P7. Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền có khả năng đọc tên những sự gào thét nội tâm vô thức bên trong của con trẻ rối loạn lo âu .
Đó là khả năng “đọc ra” những tiếng gào thét nội tâm vô thức mà chính đứa trẻ và cha mẹ đều không hề hay biết, nhất là trong các trường hợp rối loạn lo âu kéo dài, trị liệu mãi không hiệu quả. Đây chính là điều khiến nhiều phụ huynh gọi Phạm Hiền là “người nhìn thấy phần chìm của tảng băng tâm lý”. Vấn đề này cha mẹ và con trẻ đã không thể biết trong rất nhiều năm nên bị trị liệu trong vô vọng.
- Vấn đề cốt lõi cần phải hiểu
✅ Rối loạn lo âu không chỉ là sự lo sợ hay hồi hộp bề ngoài. Nó có thể là:
=> Một nỗi đau bị chôn vùi từ khi con còn rất nhỏ (ví dụ: bị bỏ rơi, bị so sánh, từng chứng kiến xung đột của bố mẹ, bị phớt lờ cảm xúc…).
=> Một cú sốc tưởng chừng rất nhỏ nhưng lặp đi lặp lại.
=> Những mong cầu vô thức bị dồn nén quá lâu
=> Sự khát khao được công nhận, được bảo vệ, được hiểu – nhưng kể cả chính con và cha mẹ, hoặc nhà tâm lý….không ai từng gọi đúng tên điều đó.
✅ Phương pháp của chuyên gia Phạm Hiền:
=> Không phải lúc nào đứa trẻ cũng nói ra điều thật sự làm nó đau – thậm chí chính con cũng không biết. Nhưng biểu hiện sẽ nói. Ánh mắt, nhịp nói, cơn giận, hành vi ‘lệch chuẩn’ sẽ nói.
=> Chuyên gia không chỉ dừng lại ở chẩn đoán hành vi, mà dùng một chuỗi kỹ thuật để:
- Giải mã ký ức vô thức.
- Dò tìm nguồn gốc tổn thương nguyên phát, chứ không chỉ xử lý triệu chứng.
- “Dịch” những phản kháng bên ngoài thành tiếng nói nội tâm bị chôn vùi.
- Đặc biệt, giúp cha mẹ nhìn lại cách mình đã vô tình gây ra hoặc duy trì sự rối loạn (dù với tình yêu thương rất lớn).
✅ Cho biết Vì sao nhiều gia đình “trị liệu vô vọng” suốt nhiều năm?
=> Chỉ tập trung vào hành vi (con hay sợ, né tránh, hoảng loạn, buồn rầu) mà không đi vào chiều sâu tâm lý cá nhân.
=> Cha mẹ từ chối hoặc không biết để thừa nhận có những yếu tố từ môi trường gia đình là nguyên nhân (vì họ yêu con theo cách họ hiểu – nhưng không đủ).
=> Trẻ không được tạo đủ an toàn để “giải thoát ký ức”.
=> Chẩn đoán sai (nhầm với trầm cảm nhẹ, nhút nhát, hoặc “bình thường thôi, trẻ con ai chả thế”).
✅Tác động khi chuyên gia gọi đúng tên những “gào thét” vô thức:
=> Trẻ bật khóc lần đầu tiên một cách sâu sắc, không phải vì đau mà vì được hiểu.
=> Cha mẹ choáng váng khi lần đầu tiên nghe con nói ra điều mà con đã gào thét thầm lặng cả tuổi thơ nhưng chưa từng diễn đạt.
=> Quá trình trị liệu lúc này mới thật sự bắt đầu có hiệu quả – vì chạm đúng gốc rễ.
✅ Chuyên gia thường cảnh báo cha mẹ khi chỉ nhìn biểu hiện bên ngoài của con
=> BIỂU HIÊN NGOÀI Con cáu giận, khó kiểm soát cảm xúc TIẾNG GÀO THÉT TRONG CON BỊ BỎ QUA “Có ai từng thấy con mệt không?”
=> BIỂU HIÊN NGOÀI Con không dám bước ra khỏi nhà một mình TIẾNG GÀO THÉT TRONG CON BỊ BỎ QUA “Con từng bị bỏ rơi, và chẳng ai nghe con khi con cần giúp”
=> BIỂU HIÊN NGOÀI Con học giỏi nhưng cực kỳ lo âu, tự trách nặng TIẾNG GÀO THÉT TRONG CON BỊ BỎ QUA “Chỉ khi giỏi, con mới được yêu. Nếu không, con là đồ bỏ đi”
=> BIỂU HIÊN NGOÀI Con nhút nhát, không muốn kết nối xã hội TIẾNG GÀO THÉT TRONG CON BỊ BỎ QUA “Thế giới này nguy hiểm – con từng bị tổn thương mà chẳng ai bênh vực”
- Tham khảo sâu hơn về khả năng đọc vị các vấn đề của con khi bị rối loạn lo ấu
✅ Cách thức tiếp cận và đọc vị
=> Quan sát ngôn ngữ phi ngôn từ: Ánh mắt khi nghe bố mẹ nói. Cách con né tránh hoặc phản ứng với một số từ khóa (như: “bố”, “mẹ”, “cô giáo”, “đi học”, “một mình”, “bị mắng”…). Nhịp thở, cử động tay chân khi bị hỏi sâu vào nội tâm. – P/s: Một đứa trẻ gồng cứng hàm và mắt lảng đi khi nghe chữ ‘đi học’ – không phải vì ghét học, mà có thể là từng bị cô giáo la trước mặt cả lớp và bị các bạn chế giễu. Đó là nỗi nhục nhỏ bị chôn vùi trong não bộ.”
=> Kỹ thuật gợi mở vô thức Dẫn chuyện theo ngôn ngữ tâm sự thông thường có chủ đích cần để nhận diện con. Gợi ký ức gần và xa của trẻ với niềm vui, nỗi buồn, sự tức giận….
=> Kỹ thuật “dò tổn thương” qua lời phụ huynh Khi nghe phụ huynh kể chuyện, chuyên gia thường chặn lại ngay ở điểm “bình thường” mà thực chất rất bất thường. Chuyên gia không bao giờ bỏ qua những mảnh vỡ nhỏ trong lời kể của cả con và cha mẹ – vì đó chính là lối vào nội tâm con.
✅Phương pháp trị liệu sơ bộ
=> Đặt lại tên cảm xúc và ký ức MỤC TIÊU Gọi đúng nỗi đau bị vùi lấp để trẻ nhận diện, giải phóng
=> Dẫn cha mẹ “nhìn ngược” về cách nuôi dạy MỤC TIÊU Để họ thấy những câu, hành vi gây tổn thương vô thức
=> Giai đoạn “xả nỗi đau nguyên thủy” MỤC TIÊU Trẻ được khóc, gào, nói ra – giai đoạn thường đầy cảm xúc
=> Giai đoạn “gắn lại niềm tin” MỤC TIÊU Tái thiết cảm giác được yêu, được bảo vệ, không còn bị đe dọa
=> Hướng dẫn phụ huynh đồng hành MỤC TIÊU Cha mẹ biết cách chữa lành cùng con chứ không chỉ giao chuyên gia
- Tham khảo một số ca chẩn đoán và tìm gốc để trị liệu thực tế cho con
✅ Bé trai 8 tuổi – luôn hoảng loạn khi mẹ rời đi
=> Biểu hiện: Đánh mẹ, la hét, ôm chân, không chịu rời mẹ.
=> Chẩn đoán sai ban đầu: Bị rối loạn chia ly – lo lắng quá mức.
=> Phân tích sâu của chuyên gia: Khi chơi đất nặn, bé luôn làm hình người mẹ bị tai nạn. Trong một buổi trị liệu, bé nói: “Nếu mẹ đi rồi không về thì sao?”. Hóa ra bé từng thấy mẹ bị tai nạn giao thông nhẹ, không ai giải thích gì, chỉ thấy mẹ nằm bất động và bị đưa đi. Tổn thương không được “kể tên” nên nỗi sợ trở thành khủng khiếp.
P/s: Phản hồi phụ huynh: Tôi đã khóc khi hiểu ra con không hề hư – con chỉ quá sợ mất mẹ mà không ai từng trấn an.
✅Bé gái 11 tuổi – học giỏi nhưng tự trách kinh khủng khi bị điểm thấp
=> Biểu hiện: Rối loạn lo âu kèm ám ảnh. Luôn lau tay nhiều lần, sợ mắc lỗi.
=> Tổn thương gốc: Bố mẹ từng vô tình nói: “Con mà không giỏi thì sau này sống thế nào?”
=> Phân tích chuyên gia: Con không học vì thích, mà học để sống sót trong thế giới mà cha mẹ dựng lên. Gốc rễ là cảm giác “con không xứng đáng nếu không hoàn hảo”.
P/s: Phản hồi phụ huynh: Tôi từng nghĩ ép con học là yêu thương, nhưng giờ mới thấy tôi đã gieo nỗi ám ảnh không lỗi thoát vào đầu con.
✅ Bé trai 10 tuổi – cười vô cảm, lơ lửng, lờ đờ
=> Biểu hiện: Không có cảm xúc rõ ràng, dễ bị bắt nạt, không phản ứng.
=> Chuyên gia nhận định: Từ nhỏ bị gửi ông bà, đổi chỗ ở nhiều lần, không ai hỏi cảm xúc, con không có chỗ thuộc về từ cảm xúc
=> Sau 6 tuần: Bé bắt đầu biết “giận”, biết bày tỏ nhu cầu, có ranh giới.
- Một số phản hồi của phụ huynh
=> Cảm giác như con mình lần đầu tiên được sống thật sự.
=> Chuyên gia chỉ cần 2 buổi là biết con đang đau ở đâu – trong khi tôi loay hoay suốt 5 năm.
=> Tôi thấy hối hận vì đã coi những dấu hiệu tâm lý là ‘trẻ con bình thường thôi’.
=> Tôi không còn cáu con nữa – vì giờ tôi thấy được phần khốn khổ phía sau cơn giận, cơn lo.
P8. Tham khảo một liệu trình trị liệu con trẻ bị rối loạn lo âu từ chuyên gia tâm lý Phạm Hiền
- Truy tìm những ẩn chứa tổn thương vô thức vên trong của các các dấu hiệu bề mặt
=> BIỂU HIỆN BỀ NGOÀI Con hay nói “Con không sao mà!” nhưng mặt u uất, ánh mắt trôi TIẾNG NÓI VÔ THỨC BỊ CHÔN GIẤU “Con đã từng buồn đến mức chẳng còn tin ai hiểu được mình.”
=> BIỂU HIỆN BỀ NGOÀI Con cười vô cảm khi bị mắng, bị sỉ nhục TIẾNG NÓI VÔ THỨC BỊ CHÔN GIẤU “Nếu con không cười thì sẽ khóc. Mà khóc thì không ai bênh con đâu.”
=> BIỂU HIỆN BỀ NGOÀI Con học tốt nhưng hay nói “Nếu con chết thì bố mẹ có thương không?” TIẾNG NÓI VÔ THỨC BỊ CHÔN GIẤU “Con cảm thấy giá trị của con là điều kiện – nếu không có thành tích, con vô hình.”
=> BIỂU HIỆN BỀ NGOÀI Con rất vâng lời nhưng khi ở một mình thì đập đầu, cào tay TIẾNG NÓI VÔ THỨC BỊ CHÔN GIẤU “Con quá áp lực vì phải làm đứa trẻ ngoan, nên phải tự phạt mình trong âm thầm để xả áp.”
=> BIỂU HIỆN BỀ NGOÀI Con hay lo xa, hỏi: “Nếu bố mẹ chết thì sao?” TIẾNG NÓI VÔ THỨC BỊ CHÔN GIẤU “Con từng sống qua cảm giác mất mát mà không ai giải thích, không ai giúp con hồi phục tinh thần.”
=> BIỂU HIỆN BỀ NGOÀI Con cực kỳ sợ đến trường dù học lực bình thường TIẾNG NÓI VÔ THỨC BỊ CHÔN GIẤU “Con từng bị làm nhục, bị dọa, bị ép học trước lớp, mà không ai đứng về phía con.”
P/s: Chuyên gia Phạm Hiền nói: Tất cả những biểu hiện “kỳ lạ” đều là tiếng kêu cứu bị che giấu kỹ đến mức con cũng không nhận ra nên phải giúp con nhận ra bằng được vì đó mới là các ẩn số cần được mở khóa từ đó không bị tái lại hoặc biến chứng nặng hơn.
- Hành trình trị liệu toàn diện
✅ Giai đoạn 1: Đọc vị và gọi tên nỗi đau cho con
=> Xác định vùng tổn thương tiềm ẩn từ vô thức thông qua nhiều kỹ thuật nhận thức, suy luận để điều hành cảm xúc, tâm lý, hành vi
=> Tìm Cảm xúc ban đầu thường bị trẻ chối bỏ hoặc né tránh để nhìn vào nó mà đọc tên nó một cách rõ ràng từ đó đặt tên lại
P/s: Mục tiêu phải Chạm đúng vào nguyên nhân nguyên thủy – không phải biểu hiện hiện tại.
✅ Giai đoạn 2: Giải phóng và xả độc cảm xúc con thú hoang trong con
=> Cho phép trẻ khóc, gào, kể lại ký ức, mô phỏng tổn thương.
=> Chuyên gia không can thiệp ngắt lời trong giai đoạn này. Không dỗ dành – mà chứng kiến cùng trẻ.
P/s: Mục tiêu Tháo chốt cảm xúc kẹt bên trong, giúp trẻ không còn bị nỗi đau điều khiển âm thầm.
✅Giai đoạn 3: Tái gắn và dựng lại niềm tin, danh tính của con
=> Xây lại nhận thức về giá trị bản thân: Con được yêu thương vì chính con, không vì thành tích hay vai trò.
=> Tái định hình cảm giác được bảo vệ, an toàn, được chấp nhận kể cả khi “không hoàn hảo”.
=> Dạy kỹ năng toàn diện để điểu khiển cảm xúc và phản xạ tư duy nhận thức, tâm lý mới lành mạnh.
P/s: Mục tiêu trao lại cho trẻ cảm giác làm chủ cảm xúc và chính mình.
- Huấn luyện cha mẹ đồng hành trị liệu cho con
✅ Dùng Gương chiếu không nước mắt
=> Chuyên gia soi thẳng các sai lệch nuôi dạy của phụ huynh (nhưng không đổ lỗi).
=> Nhiều cha mẹ sốc khi được nghe lại chính câu nói mình từng nói với con dưới góc nhìn tổn thương: “Tôi đâu có nặng lời, tôi chỉ nói ‘mày làm gì cũng hỏng’ vì tôi tức.” → Chuyên gia: “Vậy con anh còn lòng tin vào bản thân không?”
✅Loại bỏ Tín hiệu tái bệnh của con tại nhà
=> Dạy cha mẹ cách nhận biết những lúc vô tình tái kích hoạt tổn thương của con: Câu nói ấy làm con gồng lên – Ánh mắt ấy khiến con thấy bị bỏ rơi – Cách anh chị so sánh hai con khiến bé bị chệch tự trọng.
=> Cha mẹ hãy là cái phanh để dạy lại nhau nhằm không lặp lại cách tương tác cũ đã gây tổn thương cho con nhằm khiến con không bị kích hoạt con thú hoang bị tổn thương trở lại
✅ Chuyển hóa cho con cách phản ứng
=> Dạy cách phản ứng khi con lo âu, cáu giận, né tránh: Không phủ nhận cảm xúc (“Con đừng sợ” → sai). Không dùng lý trí để ép (“Có gì đâu mà lo” → sai) -> Thay bằng xác nhận và đón nhận (“Mẹ thấy con sợ rồi. Ổn. Mẹ ở đây với con.”)
=> Cha mẹ luôn là người điểm nhiên cao nhất trong sự tỉnh táo với từng cách phản ứng của con để giúp con tạo động lực và dán nhãn niềm tin con tự có bản lĩnh để vượt qua được nó
✅ Huấn luyện lại một tình yêu con an toàn
=> Cha mẹ học cách yêu con không điều kiện, không theo vai trò: học giỏi – ngoan ngoãn – giúp đỡ. Học cách thể hiện yêu thương bằng ngôn từ đúng, hành vi đúng, thái độ đúng.
=> Con học cách yêu thương bản thân bằng lý trí kiểm soát tích cực và yêu thương cha mẹ bằng sự thấu cảm, thấu hiểu
P/s: Chuyên gia Phạm Hiền rất nghiêm túc với quan điểm: Chữa lành con không chỉ là công việc của chuyên gia – mà là hành trình tỉnh thức của cả gia đình. Mỗi đứa trẻ có tổn thương, nhưng không phải đứa trẻ nào cũng may mắn được người lớn gọi tên đúng vết thương ấy nên phải đến cùng mà tìm ra.