Menu Đóng

Nguyên nhân – Hậu quả khi trẻ bị stress – Sang chấn tâm lý

Để hiểu và giúp con đúng, ta phải hiểu sâu nguyên nhân gốc (vì sao con bị stress, sang chấn) và cơ chế lan tỏa hậu quả trong tâm trí – hành động – nhân cách của trẻ.

I. Nguyên nhân gốc gây Stress và sang chấn tâm lý ở trẻ

1. Áp lực từ sự kỳ vọng sai của cha mẹ

Con phải học giỏi, phải ngoan, phải làm bố mẹ tự hào.

Trẻ bị đặt dưới chuẩn liên tục mà không được công nhận nỗ lực.

Não trẻ ghi nhận áp lực này như một mối đe dọa an toàn.

Khi bị so sánh, mắng hoặc thất vọng, trẻ tạo cơ chế tự chối bỏ bản thân (Con vô dụng.)

P/s: Cha mẹ không biết rằng, chính kỳ vọng sai khiến con bị stress mãn tính và dần hình thành rối loạn lo âu.

2. Bạo lực cảm xúc hoặc lời nói trong gia đình

Cách nói sát thương: Mày không bằng con nhà người ta. Im đi, nói nhiều!. Làm gì cũng sai!

Tưởng chỉ là dạy con nghiêm nhưng với não trẻ, đây là vết thương bị từ chối và hạ nhục.

Dẫn đến sang chấn cảm xúc tiềm ẩn vì sợ sai, sợ bị ghét, sợ thể hiện bản thân.

Trẻ có thể phản ứng đóng băng (im lặng) hoặc phản kháng cực đoan (chống đối, phá phách).

P/s: Đánh đau tan máu không bằng nói sai làm vỡ niềm tin.

3. Môi trường thiếu an toàn tình cảm

Cha mẹ ly thân, lạnh nhạt, hay cãi vã, hoặc đi làm xa.

Trẻ không cảm nhận được vòng năng lượng yêu thương ổn định quanh mình.

Mỗi lần chứng kiến căng thẳng gia đình, cơ thể trẻ kích hoạt cortisol (hormon stress).

Khi lặp lại lâu dài sẽ rối loạn stress sau sang chấn và tiềm ẩn lo sợ, giật mình, mất ngủ.

P/s: Không phải cha mẹ vắng mặt, mà là năng lượng yêu thương vắng mặt.

4. Áp lực học tập, thành tích và môi trường học đường độc hại

Bị cô la, bị bạn bắt nạt, bị tẩy chay hoặc gắn mác kém cỏi.

Trẻ học trong lo sợ, không dám sai, không dám nói.

Lâu dần, hình thành cấu trúc tâm lý đứa trẻ phải hoàn hảo nên luôn căng cứng, lo sợ mất điểm.

P/s: Trường học dạy kiến thức, nhưng quên dạy cảm xúc. Khi cảm xúc tổn thương, kiến thức cũng sụp đổ.

5. Trải nghiệm sang chấn trực tiếp hoặc gián tiếp

Bị chứng kiến cảnh bạo lực, bị đe dọa, tai nạn, lạm dụng, hoặc thấy người khác bị đau.

Dù người lớn cho rằng con nhỏ, con quên rồi nhưng não trẻ ghi sâu hình ảnh và âm thanh vào vùng hải mã và amygdala.

Sau đó chỉ cần một tín hiệu tương tự (ánh sáng, âm thanh, người, địa điểm) là trẻ hoảng loạn hoặc ám ảnh.

P/s: Sang chấn không nằm ở sự kiện, mà nằm ở cảm xúc trẻ đã phải nuốt trong khoảnh khắc đó.

6. Thiếu kết nối và thấu hiểu từ cha mẹ

Cha mẹ bận, hoặc chỉ nói chuyện bằng mệnh lệnh (ăn đi, học đi, tắm đi).

Trẻ cảm thấy vô hình, không được lắng nghe.

Dẫn đến stress nội sinh khi bề ngoài bình thường, nhưng bên trong trống rỗng.

P/s: Trẻ không cần cha mẹ giỏi nói, chỉ cần cha mẹ biết nghe khi con im.

II. Hậu quả phát triển của trẻ

Hậu quả không chỉ là con buồn hay mệt mà là sự lệch hệ thần kinh, cảm xúc và bản sắc.

1. Tác động lên hệ thần kinh và não bộ

Não liên tục tiết cortisol gây giảm trí nhớ, kém tập trung.

Vùng amygdala (não sợ hãi) phì đại nên con luôn trong trạng thái cảnh giác.

Giấc ngủ rối loạn nên cơ thể mệt, học sa sút.

P/s: Một đứa trẻ stress lâu ngày không còn học được, vì não của con đang sống trong chiến đấu hoặc bỏ chạy.

2. Biến đổi cảm xúc và hành vi

Dễ bùng nổ, giận dữ vô cớ, hoặc ngược lại thu mình, trầm lặng.

Sợ đám đông, sợ sai, sợ ánh mắt người khác.

Có xu hướng làm đau bản thân hoặc đổ lỗi cho mình (tại con mà mẹ buồn).

Dễ nghiện game, mạng xã hội để trốn thực tại.

P/s: Mỗi hành vi sai đều là một cách con tự cứu mình khỏi cảm xúc chưa được chữa.

3. Rối loạn tâm lý thứ phát

Stress kéo dài dẫn đến rối loạn lo âu, ám ảnh cưỡng chế (OCD).

Sang chấn sâu dẫn đến trầm cảm, rối loạn nhân cách hoặc sang chấn tâm lý sau chấn thương tiềm ẩn.

Trẻ hay kiểm tra cửa, rửa tay, sợ bẩn, mất ngủ, hoặc hay tưởng tượng bị hại.

4. Lệch phát triển nhân cách

Hình thành hai nhóm nguy cơ: Đứa trẻ thu mình khi luôn sợ sai, sống trong phòng thủ. Hoặc ứa trẻ nổi loạn khi chống đối, mất niềm tin, hành vi cực đoan.

Dù khác nhau, cả hai đều có vết nứt về giá trị bản thân nên không tin mình đáng được yêu.

P/s: Tổn thương không làm con xấu, nhưng làm con mất gốc. Và mất gốc thì dù giỏi đến đâu, con cũng khổ.

5. Ảnh hưởng lâu dài đến học tập, mối quan hệ, và tương lai

Giảm động lực, học đối phó. Sợ mối quan hệ mới, khó tin người, khó yêu.

Khi trưởng thành, dễ rơi vào rối loạn cảm xúc, hôn nhân lệch vai, hoặc nuôi dạy con bằng lo sợ cũ.

P/s: Nếu cha mẹ không chữa cho con khi còn nhỏ, con sẽ phải chữa chính vết thương đó khi đã là cha mẹ.

=> GIAI ĐOẠN MẦM NON (0–6 TUỔI)

Nguyên nhân: Tách rời mẹ quá sớm hoặc thiếu an toàn cảm xúc. Bởi trẻ chưa hình thành gắn bó an toàn với mẹ nên cảm giác bị bỏ rơi, sợ hãi. Bạo lực, quát mắng, dọa nạt hoặc ép ăn, ép học sớm. Mâu thuẫn giữa cha mẹ, lạnh nhạt hoặc ly thân nên trẻ cảm nhận năng lượng tiêu cực. Thiếu giao tiếp và chạm xúc tích cực nên não cảm xúc bị đói tương tác Thay đổi môi trường đột ngột (gửi trẻ, chuyển nhà, xa người thân).

Hậu quả: Rối loạn lo âu sớm, sợ xa mẹ, sợ bóng tối, sợ người lạ. Rối loạn giấc ngủ, ăn kém, bám mẹ hoặc ngược lại nên thu mình, vô cảm. Ngôn ngữ và trí tuệ chậm phát triển do stress kéo dài ức chế vùng não trước trán. Dễ phát triển rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) hoặc rối loạn cảm xúc ở tuổi học đường.

=> GIAI ĐOẠN TIỂU HỌC (6–11 TUỔI)

Nguyên nhân: Áp lực học tập và kỳ vọng quá cao nên bị so sánh, chê bai, đòi hỏi phải giỏi. Thiếu ghi nhận cảm xúc khi bố mẹ chỉ nhìn kết quả, không nhìn nỗ lực. Bạo lực học đường hoặc bắt nạt tinh vi (bị tẩy chay, cô lập, châm chọc). Mâu thuẫn cha mẹ và con khiến trẻ không được lắng nghe, bị quy kết hư – bướng. Thiếu kỹ năng xử lý cảm xúc: trẻ không biết diễn đạt nên nén lại nên stress.

Hậu quả: Rối loạn lo âu, sợ đến trường, sợ thất bại. Tự ti, né tránh giao tiếp, hoặc phát triển xu hướng cố chấp, cầu toàn, ám ảnh. Dễ rối loạn cơ thể hóa (đau đầu, đau bụng, khó thở không rõ nguyên nhân). Nếu kéo dài sẽ sang chấn tiềm ẩn khiến não ghi nhớ cảm xúc sợ hãi, hình thành tự vệ vô thức (nói dối, thu mình, gây hấn).

=> GIAI ĐOẠN TUỔI DẬY THÌ (12–18 TUỔI)

Nguyên nhân: Mâu thuẫn bản sắc cá nhân khi muốn tự chủ nhưng bị kiểm soát, không được tin tưởng. So sánh xã hội và mạng xã hội nên trẻ dễ rơi vào tự ti hoặc tự ảo tưởng. Áp lực học hành, thi cử, chọn nghề. Mâu thuẫn gia đình – tình cảm – bạn bè, đặc biệt khi cha mẹ thiếu tinh tế xử lý. Trải nghiệm sang chấn tình cảm: bị phản bội, bị lạm dụng, bị cô lập.

Hậu quả: Trầm cảm vị thành niên nên mất hứng thú, vô cảm, khó ngủ, hay khóc, bi quan. Rối loạn lo âu xã hội, sợ đánh giá, sợ sai, sợ làm phiền.Tổn thương bản sắc nhân cách nên không biết mình là ai, sống hai mặt. Dễ tìm đến hành vi nguy cơ: tự hại, bỏ học, nghiện game, nghiện mạng xã hội, hoặc hành vi chống đối. Nếu không can thiệp đúng sẽ phát triển thành rối loạn cảm xúc mãn tính ở tuổi trưởng thành.

=> GIAI ĐOẠN THANH NIÊN TRẺ (18–25 TUỔI)

Nguyên nhân: Dư chấn sang chấn cũ chưa được chữa lành nêm stress tái kích hoạt khi va vấp đời sống. Áp lực thành công, công việc, học hành, tình yêu. Cô đơn cảm xúc và thiếu gắn kết gia đình thật. Tự ti, so sánh, hoặc không có kỹ năng tự điều hòa cảm xúc.

Hậu quả: Rối loạn lo âu lan tỏa, trầm cảm tiềm ẩn, mất năng lượng sống. Rối loạn ám ảnh, OCD, hoặc PTSD nhẹ (sang chấn sau sang chấn). Dễ phát triển hội chứng burnout (cháy rỗng) hoặc rối loạn nhận diện bản thân. Mất động lực, rối loạn giấc ngủ, rối loạn ăn uống, và suy giảm hệ miễn dịch.

P/s: Mỗi độ tuổi có một ngưỡng chịu đựng khác nhau. Nhưng điểm chung là khi đứa trẻ không còn cảm thấy mình được hiểu, được tin, được an toàn nên não của con bắt đầu ghi nhớ nỗi sợ như một lệnh sinh tồn.

Nếu người lớn không giúp con tháo lệnh đó, con sẽ sống cả đời trong cơ chế phòng thủ và tự tổn thương.

Bài liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *