Menu Đóng

TƯ VẤN VÀ TRỊ LIỆU – CAN THIỆP GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT CHO CON TRẺ ĐẶC BIỆT (VIP)

(LIỆU PHÁP THỰC CHIẾN 6 GỐC KHÔNG DÙNG THUỐC)

Đã có nhiều con trẻ bị chẩn đoán vấn đề nhẹ nhưng đi can thiệp sai thành nặng hơn. Thậm chí biến chứng sang nhiều vấn đề khác.

Đã có nhiều con trẻ bị chẩn đoán quá vấn đề hoặc chẩn đoán sai nên đi can thiệp sai từ đó không vấn đề thành vấn đề thật và nặng hơn. Thậm chí phát tác thêm các vấn đề khác nặng nền hơn

Đã có rất nhiều con trẻ bị chẩn đoán không tới nơi khi không cho cha mẹ biết ngóc ngách vấn đề đó từ đâu để rồi Có bệnh thì vái tứ phương và vái sau lung tung nên con chẳng thể chữa khỏi. Thậm chí không chặn được các vấn đề khác mà lẽ ra biết sớm sẽ không bị cấp số nhân các vấn đề.

Đã có nhiều con trẻ chỉ là chậm phát triển nhưng bị chẩn đoán là Rối loạn phổ tự kỷ hoặc khuynh hướng tự kỷ từ đó cha mẹ lo lắng cho con đi khắp mọi nơi để can thiệp tự kỷ nên không tự kỷ thành tự kỷ.

Đã có nhiều đứa trẻ bị có nguy cơ Rối loạn phổ tự kỷ thì lại không được cho biết sớm mà chỉ đến khi con phát tác mạnh mới biết để chạy chữa thì đã quá muộn.

Đã có nhiều đứa trẻ đi can thiệp sai từ dưới 2 tuổi mà cha mẹ chúng chỉ ước giá như không đi sai cách.

Đã có nhiều đứa trẻ bị chẩn đoán Chậm nói, Rối loạn ngôn ngữ và cha me cho đi can thiệp từ sớm nhưng sai nên không ngăn chặn được sự chậm phát triển trí tuệ và các khả năng phát triển toàn diện. Thậm chí biến chứng sang RLPTK, Tăng động giảm chú ý (ADHD), Rối loạn hành vi, Rối loạn cảm xúc, Rối loạn chống đối và gây rối…

Đã có rất nhiều đứa trẻ lẽ ra nếu cha mẹ hiểu thì con đã có cơ hội phục hồi tốt và đặc biệt không sang các biến chứng hoặc phát tác vấn đề khác nặng nề hơn chồng chất.

Hãy nhớ Những con trẻ này cơ hội phục hồi vàng tính theo từng ngày, từng tuần, từng tháng chứ không phải theo từng độ tuổi nên không thể cứ chờ con lớn để con thay đổi hoặc chấp nhận con như vậy. Bởi vỉ: KHÔNG CÓ ĐỨA TRẺ KHIẾM KHUYẾT – CHỈ CÓ ĐỨA TRẺ KHÔNG ĐƯỢC ĐẶT ĐÚNG CƠ HỘI VÀ VỊ TRÍ ĐỂ PHÁT TRIỂN.

Nên cần hiểu đúng về Trị liệu và can thiệp cho con trẻ trong diện giáo dục đặc biệt cần phải đi từ Chẩn đoán đùng -> Hiểu Gốc vấn đề chẩn đoán -> Truy vết được các ngóc ngách nguyên nhân tạo ra vấn đề -> Từ đó mới có thể giúp con chặt đi hoàn toàn các tác nhân khiến con bị trong hiện tại và có nguy cơ biến chứng, phát tác trong các độ tuổi tiếp theo.

P1. TRỊ LIỆU TRẺ ĐẶC BIỆT ĐÚNG



Cốt lõi và quan trọng nhất trong trị liệu, can thiệp trẻ đặc biệt là phải tìm ra để chẩn đoán tất cả các vấn đề bất ổn của con và phải tìm ra tất cả các khuynh hướng bất ổn khác để đón đầu giúp con ngăn chặn nó, ngắt bỏ nó -> Nó không thể là sự chẩn đoán sơ sài hoặc chỉ chấn đoán mà không cho cha mẹ chúng biết sâu, hiểu sâu để có sự hiểu đúng mà giúp con đúng.

Không bao giờ được phép hiểu rằng con có vấn đề này là chỉ can thiệp vấn đề đó mà phải hiểu bất kỳ vấn đề gì cũng phải có ngóc ngách các rào cản -> Phải làm sao để ngắt bỏ tất cả các rễ ung nhọt của vấn đề hiện tại và sự biến chứng của tương lai các độ tuổi tiếp theo -> Nên nó không thể là sự Trị liệu, can thiệp đặc biệt theo đơn lẻ -> Nó phải là sự kết hợp Trị liệu trẻ đặc biệt toàn diện rất nhiều các yếu tố từ Tư duy nhận thức – Tính cách – Tâm lý – Cảm xúc – Hành vi.

Nó càng không phải chỉ Bác sỹ tâm lý cho uống thuốc để tạm thời lắng xuống những mất kiểm soát hay giúp con nhanh biết nói hay giúp con có tư duy nhận thức mà nó phải là sự Trị liệu toàn diện các vấn đề liên quan đến vấn đề hiện tại của con.

Nó phải là sự kết hợp rất sâu, rất rộng cả Liệu pháp Trung tâm can thiệp đặc biệt và Liệu pháp Chuyên gia trị liệu tâm lý toàn diện để giúp con có khả năng tự chữa lành cho mình bằng Tư duy nhận thức từ đó con có khả năng vận hành để tự phá t triển Tính cách, Cảm xúc, Tâm lý, Hành vi, Kỹ năng, Khả năng theo đúng quỹ đạo quy luật tự phát triển của con trẻ.

1. Can thiệp/ Trị liệu trẻ chậm nói, trẻ bị rối loại ngôn ngữ

2. Can thiệp/Trị liệu trẻ Chậm trí tuệ/ Trẻ học chậm/ Trẻ khuyết học tập

3. Can thiệp/Trị liệu Tăng động giảm chú ý (ADHD)

4. Can thiệp/Trị liệu Rối loạn phổ tự kỷ

5. Can thiệp/Trị liệu Rối loạn giấc ngủ, rối loạn hành vi, rối loạn cảm xúc

6. Can thiệp/Trị liệu Rối loạn ám ảnh/ Sợ hãi

7. Can thiệp/Trị liệu Rối loạn chống đối, gây rối

Ngoài ra là các Trị liệu giáo dục đặc biệt khác mà con trẻ đặc biệt đã có chẩn đoán từ bác sỹ hoặc trị liệu ngăn chặn các khuynh hướng trẻ có thể mắc phải ở các độ tuổi tiếp theo

Phải tìm ra được tất cả các ngóc ngách nguyên nhân từ con, từ môi trường nuôi dạy. Phải cho con Gốc của tự phát triển mà không phụ thuộc vào bất kỳ ai từ việc cho biết cách vận hành => Từ Tự Tư duy nhận thức từ đó cả khả năng tự bộc lộ, tự phát triển được Năng lực tự tư duy nhận thức -> Năng lực tư duy ngôn ngữ và giao tiếp cư xử chủ động -> Năng lực vận hành Tính cách/Tâm lý/Cảm xúc/Cảm giác/Cảm nhận –> Từ đó con có Năng lực tự phát triển Kỹ năng, khả năng tự thân phát triển trong từng độ tuổi theo các bạn trang lứa.

Cốt lõi cho con trẻ là can thiệp, trị liệu các vấn đề hiện tại nhưng phải loại bỏ hoàn toàn để các vấn đề khác bất ổn trong con không có cơ hội nảy mầm lại, nảy mầm tiếp trong các độ tuổi tiếp theo Đó mới là những gì con cần và cha mẹ cần giúp con để Trị liệu trẻ đặc biệt đúng.

Đừng quá phải tìm kiếm phương pháp màu mè cao siêu. Hãy hiểu con người cái gốc là TƯ DUY TỰ NHẬN THỨC VÀ TƯ DUY TỰ HỌC HỎI ĐỂ PHÁT TRIỂN. Vì vậy, không can thiệp trẻ đơn lẻ, không lan man vái tứ phương để mất đi cơ hội phục hồi nhanh của con trẻ. Các con cần là cha mẹ Phải đi vào thực tế từng cái Gốc, từng cái nhánh gốc của vấn đề để chặt chúng đi và gieo cho con các mầm rế tốt cho Gốc mới.

B1. Tiếp cận cha mẹ và con để Test năng lực và màu sắc phát triển của con để đánh giá mức độ đồng thời giúp cho việc tìm ra ngóc ngách vấn đề của con được đúng.

B2. Khám và Chẩn đoán Gốc các vấn đề

B3. Truy tìm nguyên nhân Gốc

B4. Trị liệu bằng liệu pháp THỰC CHIẾN TOÀN DIỆN 6 GỐC

P/s: Trong quá trình Trị liệu cho trẻ thì cha mẹ được học phương pháp để dạy và Trị liệu tỉ mỉ, chi tiết theo từng tháng. Mục đích để cha mẹ có Gốc kỹ năng và phương pháp để có sự chủ động cao nhất đồng hành cùng con nhằm không chỉ giúp con trong các vấn đề hiện tại mà ngăn chặn các bất ổn, các biến chứng trong từng giai đoạn phát triển tiếp theo

1. Con trẻ bị Chậm nói/ Rối loạn ngôn ngữ: Không phải chỉ ở vấn đề trẻ không nói được hoặc trẻ chỉ nói linh tinh mà còn từ rất nhiều các vấn đề khác liên quan tạo nên cộng thêm rất nhiều các khuynh hướng khác có thể phát tác mà nếu không đi đúng hướng sẽ chỉ giúp con biết nói nhưng hỏng các vấn đề khác mà bản thân cha mẹ cũng không thể nhận ra. Bởi vì các phát tác do can thiệp sai và các biến chứng vây quanh chỉ phát triển dần khi con bắt đầu vào lớp 1 và phát tác mạnh mẽ hơn khi con từ 9 tuổi trở ra. Đã có rất nhiều đứa trẻ đến khi vào lớp 1 thậm chí phải đến kh con học lớp 4, lớp 8 khi mà con khó để học vào mới biết rằng hình như trước kia không phải con chỉ là chậm ngôn ngữ mà còn rất nhiều vấn đề khác.

2. Con trẻ bị Hiếu động quá, Mất tập trung/ Rối loạn giấc ngủ (không ngủ được trưa ở trường và khó ngủ buổi tối)/ Tăng động giảm chú ý: Không phải chỉ ở hành vi, cảm xúc hay sự mất tập trung mà nó liên quan nhiều đến năng lực tư duy nhận thức, tâm lý, tính cách và rất nhiều các vấn đề bất ổn khác cần tìm ra để ngắt bỏ. Nên nếu chỉ là sự can thiệp từ ngọn sẽ không thể chữa khỏi thậm chí dễ khiến con biến chứng các ngưỡng của các loại Rối loạn tâm thần khác nhanh hơn khi từ 9 tuổi trở ra thậm chí phải từ 11 đến 12 tuổi trở ra mới phát tác mạnh mẽ. Có nhiều cha mẹ bị nhầm lẫn chỉ là con nghịch ngợm, chỉ là con lì bướng chống đối kể cả cho đến khi con đánh bạn, gây rối trong lớp, gây rối các nơi công cộng mới có một chút băn khoăn rồi thôi hoặc cho con đi khám.. Họ không biết đó là các biểu hiện của các biến chứng từ Tăng động giảm chú ý và nếu kéo dài con trẻ sẽ khó để có sự phát triển đúng chứ chưa nói là tốt nhất cho con.

3. Con trẻ bị Chậm tri tuệ/ Chậm học tập/ Khuyết học tập: Không phải chỉ là chậm tư duy nên chấp nhận mà nó có rất nhiều nguyên nhân có thể phần cứng khiếm khuyết, nhưng có thể không phải . Vì phần lớn ngày nay con trẻ chậm tư duy, chậm hoặc khuyết năng lực học tập không phải từ phần cứng mà từ rất nhiều các vấn đề gồm cả các vấn đề trong Tính cách/ Tâm lý và bản năng màu sắc phát triển chệch hướng của trẻ. Chính vì vậy con cần phải có sự trị liệu đúng với các ngóc ngách gây ra vấn đề. Một đứa trẻ chậm chạp, một đứa trẻ học kém… ngày nay trong lớp sẽ trở thành đứa trẻ có vấn đề trong chính cảm nhận của chúng cộng thêm với các xung đột kỳ thị từ thầy cô, bạn bè thì con sẽ không còn chỉ Chậm cũng được mà sẽ là những tổn thương trong các độ tuổi tiếp theo từ đó bây cho con các ngưỡng tâm lý bất ổn.

4. Con bị Rối loạn phổ tự kỷ: Con trẻ bị chẩn đoán bị hội chứng này sẽ khiến cha mẹ cảm thấy như bầu trời sụp đổ. Nhưng đã có quá nhiều đứa trẻ bị chẩn đoán nhần, chẩn đoán sai hoặc chẩn đoán quá khiến cho tâm lý cha mẹ bị hỗn loạn trong sự bị ám thị con bị như vậy thì mình không có khả năng giúp con từ đó tiếp tục vòng luẩn quẩn đi can thiệp sai tại các trung tâm can thiệp trẻ tự kỷ để rồi đi càng nhiều càng thất vọng và rơi vòng sự mất niềm tin, mất phương hướng.

Quá nhiều cha mẹ chỉ ước quay lại mốc đầu tiên cho con đi đúng nơi. Ngoài ra, cũng có những cha mẹ không dám nhìn vào sự thật, không muốn chấp nhận con như vậy nên cũng chẳng quan tâm mà để con tự lớn trong sự khiếm khuyết lớn và phải đến khi con quá nặng về hành vi, về cảm xúc mới cho con đi thì đã muộn. Nếu như chúng ta hiểu rằng để dạy một thứ gì đó cho đến khi con làm được thì những đứa trẻ phát triển thông thường cũng phải vài lần lặp lại thậm chí cả chục lần may ra mới tự làm được thì những đứa trẻ này kể cả dạy vài chục lần, cả trăm lần con cũng sẽ làm được .

Vì vậy càng không thể biến con trẻ bị Rối loạn phổ tự kỷ thành đứa trẻ như hết thuốc chữa mà hãy xác định con phải được chẩn đoán đúng, phải có mức độ đúng và từ đó phải tìm ra mọi ngóc ngách để len lỏi tốt nhất cho con. Đừng để như rất nhiều con trẻ đi can thiệp từ 18 tháng, từ 2 tuổi lẽ ra con có cơ hội phục hồi cao khi ngăn chặn được nhưng bị can thiệp sai mà biến thành sai hoàn toàn để rồi không phải trẻ tự kỷ nhưng thành trẻ như vậy.

P2. TƯ VẤN GIÁO DỤC SỚM ĐỂ NGĂN CHẶN CÁC RỐI LOẠN PHÁT TRIỂN Ở TRẺ

Một sai lầm lớn nhất trong nhận thức về Nuôi dạy và giáo dục sớm cho con trẻ trong 6 năm vàng đó là biết là 6 năm vàng quan trọng nhất để có Gốc phát triển tiếp theo cho trẻ nhưng luôn bị bỏ qua các giáo dục cốt lõi chuẩn và không đón đầu một cách kỹ lưỡng các khuynh hướng, các nguy cơ về Năng lực tự Tư duy nhận thức để tự lớn trong phát triển Năng lực twuj vận hành Não bộ/Năng lực tự học hỏi và phát triển kỹ năng, khả năng/ Năng lực tự phát triển Tính cách/ Tâm lý/ Cảm xúc/ Hành vi/ Ý thức đúng.

1. Bởi vì bản năng chiều chuộng phục vụ và sự không muốn, không dám nhìn vào yếu điểm của con trẻ, hiểu sai về dạy con tự do nhưng tưởng đang dạy con tự nhiên nên khiến con phát triển từ nhận thức đến các vấn đề khác bị thụ động, bị phát tác tự do nhiều bất ổn….

2. Bởi vì quan điểm lệch chuẩn trong nuôi và dạy con là còn nhỏ chưa biết gì, chờ lớn nó khắc biết khiến vô tình các con bị chặn đứng sự tự phát triển ngay trong 6 năm vàng mà không có cơ hội để có khả năng tự phát triển trong các độ tuổi tiếp theo thậm chí bị các hội chứng tâm lý, bị rối loạn phát triển

3. Bởi vì ông bà và cha mẹ ít đón đầu các khuynh hướng hoặc các nguy cơ thậm chí không muốn đón đầu, không muốn nhìn vào sự thật các vấn đề bất ổn của con từ khi nó mới nhen nhóm nên phải khi con con phát tác nặng mới biết thì con đã bị thành bệnh, thành vấn đề.

4. Bởi vì ông bà, bố mẹ chỉ đón đầu phát triển cho con mà không cần, không muốn, thậm chí không dám khắc phục các yếu điểm của con vì sợ coi con là con trẻ có vấn đề hoặc cho rằng phải là trẻ đặc biệt có vấn đề mới phải khắc phục chứ.

1. Những đứa trẻ với nhiều áp lực vô hình, với nhiều vết hằn nội tâm tổn thương mà bản thân chúng mơ hồ không thể đọc tên và cha mẹ cũng không thể đọc tên hộ nó.

Từ đó tạo ra từ trường đời sống tinh thần của con ngày càng giảm sút. Con cứ tạo ra cái vòng luẩn quẩn của sự: Chán nản và không có năng lượng mà không biết từ đâu -> Cứ vô minh trong cam chịu, chấp nhận cũng vô minh -> Không muốn nghĩ, không muốn vận động hay làm gì -> Không muốn học tập -> Không muốn ai chạm đến -> Gồng lên sự không nghe, không muốn, mặc kệ thậm chí phản kháng -> Chấp nhận ì ạch, buông bỏ, bất cần còn cha mẹ thì chấp nhận hoặc loay hoay trong giúp con vô thức nên không có kết quả thậm chí chệch hướng hơn. Đương nhiên đời sống tinh thần quyết định 95% sự phát triển Tư duy Nhận thức/ Tính cách/ Tâm lý/ Cảm xúc/ Học tập và phát triển bản thân và sự tự phát triển tiếp theo với các khuynh hướng bệnh tâm lý nặng hơn.

2. Những đứa trẻ với nhiều áp lực trong tương tác cha mẹ, thầy cô, bạn bè bởi những sự trái chiều với nhận thức, trái chiều trong cư xử nhưng nó không chịu thay đổi hoặc cha mẹ không biết để giúp con thay đổi hoặc cha mẹ chờ nó lớn để nó thay đổi.

Từ đó tạo nên những sự gồng lên để chống đỡ bởi sự lì lợm, chống đối, bất hợp tác gai góc trong sự thấy bất công, trong sự thấy bất mãn . Những sự căng thần kinh gào thét cả trong nội tâm và hành động như chúng là nạn nhân của tất cả mọi người, là nạn nhân của toàn thế giới khiến chúng thật khổ sở. Cứ như vậy chúng phản kháng lại mọi nhận thức khác để nhốt mình trong cái hũ tối chỉ có tổn thương mà không biết mình bị tổn thương, hư hỗn mà không biết mình hư hỗn nên buông bỏ học tập, chẳng lắng nghe ai vì dường như chẳng ai khiến chúng tin tưởng. Chúng cứ tự làm quá lên cộng thêm chúng càng gai góc thì thầy cô, cha mẹ, bạn bè càng không thể thấu hiểu nên khiến chúng càng gặm nhấm từng ngày nỗi khổ sở trong sự thấy bất công và bất mãn đến mức biển đổi thành đứa trẻ bị kỳ thị, bị cho là có vấn đề.




3. Những đứa trẻ nhút nhát, không có bạn chơi, hay bị trêu trọc bắt nạt, không có kỹ năng tương tác và thể hiện bản thân, không có kỹ năng giao tiếp tốt, thu mình trong sự trầm lặng, thậm chí bị tẩy chay

Từ đó các con đến trường lớp với sự lạc lõng, đơn độc thậm chí trong sự sợ hãi nhưng chỉ một mình chúng cam chịu, chấp nhận để che giấu các vấn đề gặp phải đi. Có những đứa trẻ tâm sự với bố mẹ nhưng không nhận được giải pháp có thể giúp chúng được, sau tâm sự chúng vẫn bị vậy nên càng che giấu để không cho cha mẹ biết nữa. Bởi chúng nói bố mẹ biết cũng chẳng thể giúp được gì nên thôi con tự chịu. Cứ như vậy có những đứa trẻ phải chịu đựng từ tiểu học rồi lên đến từng cấp học tiếp theo vẫn không được cải thiện từ đó chúng dán nhãn cho mình sự cam chịu cao độ. Đến tuổi nào đó không thể thì đã phát tác ra bệnh tâm lý.

P/s: Nếu chúng ta hiểu rằng trong tuổi học trò hiện đại ngày nay thì khi con gặp bất kỳ vấn đề gì liên quan đến việc con không thể nào tự tin để kết nối các mỗi quan hệ, con không thể duy trì được bạn bè, con không thể hiện được bản thân dù con khao khát hay con đã bị mài mòn mà cam chịu trong bất cần, hay sự nếm trải lạc lõng cô độc trong lớp học, hoặc đến lớp với sự sợ hãi khi bị trêu trọc và tẩy chay…. nó sẽ khiến con khổ sở thậm chí đau đớn như thế nào. Và đặc biệt trong tuổi này áp lực lớn rất của các con chính là ở những vấn đề này nên nếu giúp con tháo gỡ nó chính là giúp con có tiền đề để được phát triển học tập, được phát triển bản thân đúng nhất.

4. Những đứa trẻ có khuynh hướng về các vấn đề phát triển không biết sàng lọc học hỏi nên luôn học xấu nhanh mà vướng vào tệ nạn học đường như: Cúp học, đánh nhau, đua xe, hút thuốc lá, dùng chất gây nghiện, bạo lực học đường, a dua bạn xấu và học xấu, chơi cờ bạc, chơi tài xỉu…

Cha mẹ khi phát hiện ra những lần đầu tiên đương nhiên sẽ là sự chửi mắng hoặc sự bình tĩnh trong tức giận, hoang mang để khuyên nhủ con. Đứa trẻ sẽ tỏ ra rất hiểu chuyện, hối lỗi hoặc có thể vẫn không biết sai mà gầm gừ chống đỡ tạm thời. Nhưng vấn đề là có rất ít đứa trẻ nhận ra thực sự hoặc có thể nhận ra nhưng không có kỹ năng, không có ý chí để chống lại sự lôi kéo và lại tiếp diễn hết lần này đến lần khác. Phải đến khi các con buông bỏ hoàn toàn học tập, phải đến khi con sa lầy thì cha mẹ mới thực sự thấy hết cách mà đưa con đi tư vấn tháo gỡ.

P/s: Nếu như ngay từ khi phát hiện con có vấn đề mà cha mẹ cho con đi tư vấn để tìm các nguyên nhân, giúp con từ tư duy nhận thức, kỹ năng và lý trí, ý chí từ chối và cưỡng lại thì đã có thể giúp con không sa lầy liên miên hết ngày này sang ngày khác.

5. Những đứa trẻ lười biếng không muốn học hoặc học kém nên sợ học từ đó tạo ra áp lực khi luôn bị cha mẹ thúc ép hoặc bản thân tự kỳ vọng học tập cao quá với khả năng hoặc luôn kỳ vọng cao của bản thân đến mức không để bản thân bị thất bại trong sự căng thẳng thậm chí dằn vặt chính mình.

Dù trong bất kỳ trạng thái nào thì con trẻ luôn có những sự gồng gánh khó chịu, tức giận hoặc hoang mang, lo lắng, sợ hãi từ đó trở nên cáu gắt, dễ mất kiểm soát cảm xúc, nhận thức thái quá hoặc sai lệch vấn đề tạo ra sự khổ sở tinh thần. Khi không được gỡ bỏ nó sẽ ngày càng nặng nề hơn thậm chí gây chệch hướng sự phát triển của bản thân trong các tâm lý bất lực cam chịu hoặc bất mãn kéo mình xuống

P/s: Nếu như cho con một lần được khám phá thực sự năng lực học, năng lực ý thức học và mục tiêu đúng, con sẽ học cách để thay đổi bản thân có ý thức và ý chí học trong sự tích cực nhất thì con sẽ không bị những áp lực để kéo học tập đi xuống thậm chí kéo cả sự tự phát triển tích cực đi xuống.

6. Những đứa trẻ có các khuynh hướng lệch lạc giới tính.

Có những đứa trẻ ngay từ khi còn nhỏ đã đi ngược với giới tính gồm cả cách mặc, cách chơi. Nhiều cha mẹ coi nó là bình thường nhưng không biết nó sẽ là khởi đầu cho những thói quen và từ thói quen thành bản tính của con. Ngoài ra vào các độ tuổi cấp 2, cấp 3 các con bắt đầu tiếp cận nhiều các thông tin trái chiều về đồng tính nên cũng dễ dàng bị ám thị từ đó gây ra sự lệch lạc này. Có rất nhiều con trẻ thậm chí vì quá nhút nhát và đã trải qua bị bắt nạt nhiều hoặc bị tổn thương nội tâm trong yếu ớt cam chịu nên chỉ cần có một bạn nữ Tomboy mạnh mẽ sẽ cuốn hút con cũng rất mạnh mẽ. Hoặc có đứa trẻ chỉ vì muốn bảo vêj một bạn cùng giới cũng có thể tạo ra sự mạnh mẽ khác giới để bảo vệ bạn. Có rất nhiều các ý niệm và ý thức vô hình khiến các con bị lây lan cảm xúc, bị lây lan nhận thức sai lệch mà trở nên sai lệch.

P/s: Nếu ngay khi phát hiện sự trái dấu với quy luật thông thường từ trong nhận thức hay hành động của con trẻ mà giúp con nhận thức đúng đắn sẽ giúp con thay đổi được thay bằng bây giờ nhiều cha mẹ hiện đai bất lực thậm chí cũng hiểu sai cho là chuyện bình thường mà không phát hiện ra giới tính thực hay giả của con. Còn rất nhiều các vấn đề cần cho con hiểu, cần giúp con kỹ năng, khả năng.

🏵️ Tại sao cha mẹ Việt hiếm tư vấn đón đầu cho con về tâm lý?

Vì nhiều cha mẹ nghĩ rằng vấn đề không quá nghiêm trọng cho đến khi phải có cái gì đó khiến con quá lên mà mình không thể chấp nhận được hoặc quá lo lắng cho con mới có thể tìm nơi tư vấn cho con. Thậm chí trong nhiều năm tư vấn có khá nhiều các con khi đến với Phạm Hiền đã được cảnh bảo về các các nguy cơ, các khuynh hướng bệnh tâm lý nhưng cha mẹ vẫn chủ quan thậm chí rất hời hợt theo kiểu nghe để biết. Phải cho đến khi con phát tác bệnhtâm lý thực sự và có chát chẩn đoán, chát đơn thuốc của bệnh viện thì các cha mẹ mới lo lắng để giúp con thực sự. Thậm chí nhiều con phát bệnh rồi mà không ảnh hưởng đến học tập thì cha mẹ vẫn chủ quan. Bởi cha mẹ hiện đại ngày nay thường đo lường và nhận diện con cái thông qua điểm số và kết quả học tập là chính.

🏵️ Quy trình tư vấn tâm lý cho con

Đừng chần chừ, đừng trì hoãn trong sự chủ quan chờ con thay đổi, chờ con lớn con thay đổi. Bởi mỗi vấn đề luôn sẽ thành thói quen và từ thói quen hình thành nên bản tính của con. Hãy cho con

B1. Tiếp cận cha mẹ và con

B2. Tư vấn các vấn để bất ổn hoặc là rào cản gây ra các khuynh hướng phát triển bất ổn trong độ tuổi và tương lai

B3. Truy tìm nguyên nhân Gốc của các vấn đề và các rào cản con mắc phải

B4. Truy tìm các rào cản tương lai có thể xảy ra để giúp cha mẹ và con đón đầu ngăn chặn trước

B5. Tư vấn phương pháp THỰC CHIẾN 9 GỐC cho con và tạo động lực cho con có nội lực ý chí mong muốn , quyết tâm thay đổi bản thân.

B6. Tư vấn phương pháp cho cha mẹ để đồng hành cùng con trong từng vấn đề cần con thay đổi và phát triển

ĐĂNG KÝ TƯ VẤN

Tư vấn/Trị liệu giáo dục đặc biệt
Hẹn giờ tư vấn
Hình thức

1. HIỂU VỀ TRẺ CHẬM NÓI – RỐI LOẠN NGÔN NGỮ & GÓC NHÌN CỦA PHỤ HUYNH VỀ LIỆU PHÁP TRỊ LIỆU CỦA CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN
(XEM THÊM)

Chuyên gia Phạm Hiền luôn cảnh báo đến các cha mẹ rằng: Trẻ bị chậm nói không đơn giản chỉ là nói muộn, mà thường là biểu hiện bề nổi của nhiều vấn đề ẩn sâu bên trong mà nếu cha mẹ chủ quan sẽ dẫn đến can thiệp sai, mất thời gian vàng để con phục hồi đúng thậm chí tạo thêm nhiều khuynh hướng bất ổn, nhiều biến chứng rối loạn khác khó lường

Câu nói này là lời cảnh báo nghiêm túc, khắc nghiệt nhưng đầy trách nhiệm, dựa trên kinh nghiệm TƯ VẤN VÀ TRỊ LIỆU THỰC CHIẾN cho hàng ngàn trẻ đặc biệt trong nhiều năm nay.

✴️ Chậm nói là biểu hiện – Không phải nguyên nhân

➡️ Chậm nói không phải là gốc rễ – nó chỉ là “biểu hiện dễ thấy nhất”.

➡️ Gốc rễ thật có thể nằm ở nhận thức, cảm xúc, khả năng xử lý thông tin, kết nối xã hội, hoặc sang chấn nội tâm.

➡️ Nếu cha mẹ chỉ tìm cách làm sao để con nói ra được từ mà không khám phá nguyên nhân gốc, thì rất dễ “trị sai bệnh”.

✴️ Các vấn đề thường đi kèm với chậm nói, rối loạn ngôn ngữ – Theo quan điểm của chuyên gia Phạm Hiền

➡️ Rối loạn phát triển: Tránh giao tiếp, chơi đơn điệu, lặp đi lặp lại – Do Trẻ không hiểu bối cảnh để dùng lời nói phù hợp

➡️ Rối loạn cảm giác: Nhạy quá mức với âm thanh, ánh sáng, sờ chạm – Từ đó Gây khó khăn khi tiếp nhận ngôn ngữ từ môi trường

➡️ Vấn đề kết nối xã hội: Không nhìn vào mắt, không đáp lại gọi tên – Do Thiếu nền tảng tương tác – yếu tố cốt lõi để phát triển lời nói

➡️ Vấn đề hành vi – cảm xúc: Dễ cáu giận, gào khóc, mất kiểm soát – Khó học được ngôn ngữ do cảm xúc lấn át sự học hỏi

➡️ Rối loạn xử lý thính giác/ ngôn ngữ: Nghe nhưng không hiểu, bắt chước lời nói sai – Do Trẻ không mã hóa được âm thanh thành nghĩa

➡️ Tổn thương tâm lý – sang chấn: Im lặng, sợ hãi, thụ động quá mức – Do Trẻ mất an toàn nội tâm nên “tắt máy” giao tiếp

➡️ Chậm phát triển trí tuệ: Không hiểu câu hỏi, khó làm theo yêu cầu – Thiếu nền nhận thức cần thiết để hiểu và sử dụng ngôn ngữ

➡️ Rối loạn nhận thức: Không hiểu để sử dụng từ – Do không có tư duy logic trong nhận thức đúng và nhiễu loạn lộn xộn các kiến thức nạp vào

P/s: Hãy nhớ Nhiều trẻ tưởng là “chậm nói đơn thuần”, nhưng thực tế lại thuộc phổ rối loạn phát triển hoặc có dấu hiệu tổn thương kết nối sớm với mẹ.

✴️ Vì sao chẩn đoán sai dẫn đến can thiệp, trị liệu sai và mất thời gian vàng phục hồi của con

➡️ Nếu chỉ tập trung dạy con phát âm mà bỏ qua việc con không có nhu cầu nói, không biết giao tiếp, thì con đang bị can thiệp, trị liệu ngược.

➡️ Nếu chỉ tập ngôn ngữ mà không xử lý cảm giác, cảm xúc, hành vi, con có thể học vài từ rồi… dừng lại mãi và não bộ con bị đóng băng không có khả năng phục hồi

➡️ Nếu chỉ làm theo giáo trình dập khuôn hết giai đoạn này đến giai đoạn khác, hết tuổi này đến tuổi khác thì con đã bị bỏ qua nhịp cảm xúc và nhịp phát triển riêng của con từ đó càng học con càng đuối thậm chí thụt lùi – phụ huynh thì càng kiệt sức và mất niềm tin con có thể phục hổi.

P/s: Hãy nhớ Chậm nói là dấu hiệu cảnh báo sớm – nếu biết nhìn đúng, can thiệp đúng thì không chỉ giúp con nói mà còn ngăn chặn hàng loạt hệ lụy phát triển bất ổn thậm chí thêm bênh khác về sau.

✴️ Dấu hiệu cảnh báo cha mẹ cần đặc biệt lưu ý (không chỉ chậm nói)

➡️ Không đáp lại khi gọi tên -> Vấn đề kết nối xã hội

➡️ Không biết chơi giả vờ -> Chậm phát triển tư duy biểu tượng

➡️ Không thể chia sẻ cảm xúc -> Thiếu gắn kết với người khác

➡️ La hét thay cho nói -> Giao tiếp hành vi thay vì lời nói

➡️ Không bắt chước động tác tay -> Hạn chế kỹ năng mô phỏng và học hỏi

➡️ Nhìn lơ đãng hoặc chăm chăm một điểm -> Có thể liên quan đến phổ tự kỷ hoặc rối loạn xử lý giác quan

P/s: Hãy nhớ Chậm nói KHÔNG bao giờ là vấn đề đơn lẻ. Nếu cha mẹ chỉ quan tâm ‘khi nào con nói được’ mà không tìm hiểu sâu bên trong, thì có thể bỏ lỡ cả một hành trình hồi phục phát triển toàn diện của con.

✴️ Cách tiếp cận đúng – theo chuyên gia Phạm Hiền

➡️ ĐỪNG HỎI “Con học bao lâu thì nói?” HÃY HỎI “Con đang cần tôi hỗ trợ điều gì để có thể mở lòng kết nối và bắt đầu học nói tự nhiên?”

➡️ ĐỪNG BẮT con phát âm máy móc HÃY DẠY con chơi, kết nối, cảm xúc, giao tiếp bằng ánh mắt, hành động trước – rồi ngôn ngữ sẽ đến tự nhiên.

➡️ Đừng chỉ “giao” con cho trung tâm, giáo viên trị liệu HẢY luôn là người đồng hành chính – và hiểu rõ tại sao con chưa thể nói, cần được tháo gỡ điều gì để yêu cầu sự được hướng dẫn từ nhà chuyên môn đúng

✴️ Thực tiễn từ hàng ngàn ca trẻ được trị liệu cá nhân hóa

➡️ Là người trực tiếp từ chẩn đoán, đưa phương pháp trị liệu toàn diện, đánh giá, xây dựng lộ trình cho hàng ngàn trẻ chậm nói, rối loạn ngôn ngữ, tự kỷ, ADHD, chậm phát triển nên dễ dàng nhận ra các bất ổn kép của con trẻ mà không như chỉ là biểu hiện bên ngoài.

➡️ Hơn 85% trẻ đến với biểu hiện “chậm nói” đều không đơn thuần chỉ là chậm nói, mà có kèm theo ít nhất 1 trong các vấn đề sau: Chậm trí tuệ – Chậm nhận thức – Khó kết nối xã hội – Rối loạn cảm giác – Vấn đề điều hòa hành vi hoặc cảm xúc – Hoặc có sang chấn tâm lý sớm, rối loạn liên kết sơ sinh.

➡️ Trong quá trình can thiệp, trị liệu đơn lẻ cho thấy nếu chỉ trị liệu phần ngôn ngữ, hiệu quả thường chỉ đạt tối đa 20-30%. Nhưng nếu thực hiện toàn diện đồng thời trị liệu gỡ các tầng phát triển nền tảng thì kết quả có thể đạt trên 80% phục hồi thậm chí nhiều con đạt đến ngưỡng an toàn như hoặc hơn cả các con trẻ thông thường

✴️ Phân tích hệ vận hành não bộ & quá trình phát triển ngôn ngữ chuẩn khoa học

Trừ các khiếm khuyết cứng về lưỡi, về họng về các vấn đề khác của cứng thì theo mô hình phát triển ngôn ngữ từ hệ thần kinh và tâm lý phát triển thì càng rõ nét hơn của việc không thể can thiệp hay trị liệu con chậm nói, rối loạn ngôn ngữ đơn lẻ với biểu hiện chỉ là ngôn ngữ được

➡️ Phát triển giác quan & cảm nhận -> Nếu sai lệch, trẻ khó tiếp nhận âm thanh đúng

➡️ Nhận thức – xử lý thông tin -> Nếu yếu, trẻ không hiểu lời nói là để giao tiếp

➡️ Giao tiếp phi ngôn ngữ -> Nếu thiếu ánh mắt, cử chỉ, thì ngôn ngữ bị “cụt”

➡️ Kết nối cảm xúc xã hội -> Nếu không gắn bó, trẻ không có động lực nói

➡️ Khả năng bắt chước -> Bắt chước là tiền đề để học phát âm

P/s: Nếu không phải khiếm khuyết cứng thì do hệ điều hành của con chưa bật kết nối – chưa đủ để vận hành lời nói có ý nghĩa và nhu cầu tương tác

✴️ Chuyên gia Ứng dụng phương pháp theo tháp trị liệu song song theo tháp 10 tầng

➡️ Tầng 1: Trị liệu Vai trò điều phối của phụ huynh trong từng tầng phát triển

➡️ Tầng 2: Trị liệu Tâm lý trẻ

➡️ Tầng 3: Trị liệu Cơ chế thần kinh – giác quan – cảm nhận

➡️ Tầng 4: Trị liệu tư duy nhận thức chủ động

➡️ Tầng 5: Trị liệu cảm xúc – hành vi kỷ luật

➡️ Tầng 6: Trị liệu nhận thức ý thức nhu cầu – Đón đầu mong muốn

➡️ Tầng 7: Trị liệu nhận thức ý thức muốn làm – Đón đầu cần làm

➡️ Tầng 8: Trị liệu ngôn ngữ đơn lẻ chủ động – Nói đúng, nói trúng

➡️ Tầng 9: Trị liệu tư duy ngôn ngữ diễn đạt – Nói câu có ý

➡️ Tầng 10: Trị liệu giao tiếp cư xử chủ động – Nhu cầu tương tác giao tiếp và chủ động giao tiếp

P/s: Bất kỳ tầng nào không đúng, đủ thì chỉ là trị liệu bật âm cho trẻ “biết nói từ” mà chưa phải là trị liệu để con trẻ có khả năng tự chủ trong giao tiếp với các mối quan hệ và các tình huống trong cuộc sống

✴️ Phản hồi thực tế từ phụ huynh – kết quả là minh chứng sống

➡️ Tôi cũng như hàng nghìn phụ huynh từng đi khắp nơi chỉ để “dạy nói cho con” nhưng không thành công đúng với đích đến là con trẻ cần có khả năng Diễn đạt trình bày vấn đề tốt và giao tiếp chủ động tốt để không gặp phải các hệ lụy tâm lý và phát triển khác tiếp theo. Nhưng đi vào đúng những yếu điểm con cần phải có khi giao tiếp thì bố mẹ mới hiểu thế nào là Trị liệu ngôn ngữ.

➡️ Sau khi được hướng dẫn trị liệu theo “phát triển gốc – không chỉ chữa ngọn”, thì con bắt đầu kết nối, tương tác, rồi mới nói ra – không áp lực, không máy móc.

➡️ Tôi tưởng con chỉ chậm nói nhưng khi đánh giá thực sự đã chỉ ra rằng : Con không kết nối được vì có sang chấn từ khi lọt lòng. Nhờ tháo nút đó, con mở lòng, rồi mới học nói được.

➡️ Tôi đã hiểu và không xem trẻ là cỗ máy để “nạp ngôn ngữ”. Không nhồi nhét bằng kỹ thuật trị liệu ngôn ngữ đơn thuần. Mà đặt trẻ vào môi trường đủ an toàn, đủ kết nối, đủ đồng hành cảm xúc để từ đó con bật phát triển một cách chủ động – bền vững – tự nhiên.

➡️ Tôi hiểu sâu sắc rừng Trẻ không cần ‘phải nói’. Trẻ cần được hiểu – để muốn nói.

➡️ Tôi từng nghĩ con cần học nói. Giờ tôi hiểu: con cần được nghe – bằng cả trí tuệ, lý trí và trái tim của mẹ

➡️ Tôi thực sự có Sự thức tỉnh – sự kết nối – và sự chuyển hóa toàn diện của cả con và gia đình tốt hơn

➡️ Con tôi chưa từng gọi ‘mẹ’ suốt 4 năm đầu đời. Sau 3 tháng tôi đồng hành theo hướng chuyên gia dạy, con tự gọi ‘mẹ ơi’ – bằng ánh mắt, giọng nói và cả sự ấm áp. Tôi đã khóc như một đứa trẻ.”

➡️ Trước đây con chỉ la hét, không giao tiếp, né tránh ánh nhìn. Bây giờ con biết chạy lại ôm mẹ, gọi tên bà, và dắt tay bố đi chơi. Không cần nói quá nhiều – con đang kết nối.”

➡️ Không cần học 10 buổi/tuần. Chỉ cần 20 phút mỗi ngày tôi ngồi với con thật lòng, chơi theo cách chuyện gia Phạm Hiền chỉ dẫn – mà con bắt đầu chủ động nói. Điều đó kỳ diệu.

➡️ Tôi từng thấy mình là người mẹ thất bại. Nhưng khi chị Hiền nói ‘Con không hỏng, mẹ không sai – chỉ là cả hai đang cần chữa lành’… tôi nhẹ lòng thật sự.

➡️ Trước tôi chỉ biết la mắng, bắt con nói, ép con học. Sau tư vấn, tôi học cách chờ con, lắng nghe con, yêu con như chính nó. Tôi không còn sợ con nữa.

➡️ Tôi tưởng trị liệu là kỹ thuật. Nhưng chị Hiền chỉ tôi cách chữa bằng trái tim – bằng ánh mắt, bằng hơi thở, bằng lòng kiên nhẫn. Tôi học lại cách làm mẹ từ đầu.

➡️ Chồng tôi từng né tránh con. Nhưng sau buổi trị liệu gia đình, anh đã ôm con lần đầu tiên trong nước mắt và nói: ‘Ba xin lỗi vì đã không hiểu con.’”

➡️ Trước đây tôi và ông bà cãi nhau vì cách dạy con. Giờ cả nhà cùng chiều, cùng lắng nghe, cùng chơi với bé. Cả nhà hồi sinh cùng nhau.”

➡️ Tôi đi hàng chục trung tâm, nhưng chỉ đến khi tôi dừng lại, hiện diện thật với con, thì con mới cất tiếng.”

➡️ Bác chuyên gia không làm phép màu mà chỉ cho tôi thấy: phép màu nằm ở tình yêu thương và trị liệu cho con đúng cách với những gì gần gũi nhất cuộc sống con cần mà tôi từng bỏ quên

➡️ Tôi đưa con đến với chuyên gia vì con chậm nói. Nhưng thứ tôi mang về không phải là vài chục từ vựng – mà là cả một trái tim được chữa lành và một gia đình được chữa lành

➡️ Con tôi có khả năng nói theo cách tự nhiên và đầy kết nối. Trước đây con nói lặp vô nghĩa, gào thét bây giờ con biết nhìn mẹ, ôm mẹ và chủ động nhẫn nại dùng từ và diễn đạt đúng ngữ cảnh

➡️ Con không chỉ nói – mà còn biết giao tiếp cảm xúc. Lúc đầu tôi chỉ mong con nói. Nhưng khi con biết nhìn vào mắt tôi, ôm tôi khi buồn, và gọi ‘Ba ơi, đừng đi!’ – tôi hiểu con không chỉ học nói, con đã học YÊU.”

➡️ Con từng không biết chờ, không biết nghe. Giờ con biết chờ mẹ trả lời, biết cảm ơn, biết ‘con sai rồi’. Điều đó quý hơn cả ngôn ngữ.

➡️ Không còn là âm thanh máy móc. Từng câu con nói ra là cảm xúc thật. Mắt con sáng lên. Tôi thấy con trở lại là một đứa trẻ hạnh phúc.

➡️ Cha mẹ thay đổi – không còn áp lực, không còn sợ hãi. Trước đây tôi ép con nói, chỉ mong đạt mốc. Nhưng sau khi nghe bác Phạm Hiền phân tích, tôi hiểu mình đang làm sai. Tôi dừng lại – và con bắt đầu tiến bộ

➡️ Tôi từng tuyệt vọng vì con quá khác biệt. Nhưng chuyên gia nói : ‘Mẹ hãy tin con không hỏng. Con đang chờ được dẫn dắt bằng yêu thương có chú đích. Câu đó cứu tôi khỏi sự tuyệt vọng. Tôi học lại cách làm mẹ – từ ánh mắt, giọng nói, cách lắng nghe con – và chính tôi cũng được chữa lành từ vết thương tuổi thơ của mình.

➡️ Cả gia đình thay đổi – cùng đồng hành và chữa lành. Chồng tôi từng bỏ mặc con, nghĩ con chậm là do tôi. Sau trị liệu gia đình, anh bật khóc và xin lỗi con. Từ đó cả nhà cùng thay đổi.” Không còn đổ lỗi. Không còn chia rẽ. Chúng tôi bắt đầu học cách YÊU CON ĐÚNG CÁCH – cùng nhau.

➡️ Chuyên gia Phạm Hiền không hứa con sẽ nói trong bao lâu – nhưng bác ấy dạy tôi cách THẤY con, HIỂU con và CHỜ con lớn lên trong yêu thương đúng cách có chủ đích từng ngày.

➡️ Chuyên gia Phạm Hiền không “trị liệu” để con nói bằng mọi giá. Chị giúp cha mẹ khơi dậy bản năng giao tiếp đã ngủ quên trong con – bằng yêu thương, kết nối, và sự hiện diện thực sự.

➡️ Con tôi tiến bộ thật. Nhưng điều tuyệt vời hơn là tôi được trở lại làm một người mẹ biết YÊU CON ĐÚNG CÁCH.” Không còn những buổi học đầy nước mắt và sự bất lực trong gáo thét -> Giờ mỗi ngày ở nhà là một buổi trị liệu đầy tiếng cười vui vẻ.

✴️ Phụ huynh có con chậm nói sau khi trị liệu theo hướng dẫn và chỉ đạo từ chuyên gia Phạm Hiền đã có những phản hồi rất sâu sắc, cảm động và thực tế.

➡️ Nhiều phụ huynh đánh giá là “Khác biệt và là bước ngoặt phục hồi, triển của đứa trẻ ” trong hành trình trị liệu cho trẻ chậm nói

➡️ Điều họ nhận lại không chỉ là con biết nói, mà là một hành trình chữa lành cả đứa trẻ và gia đình, giúp họ thay đổi tận gốc Cách nhìn – Cách nuôi – Cách yêu thương con – Cách can thiệp và Trị liệu từ Gốc mà con cần.

➡️ Sự khác biệt này không nằm ở kỹ thuật cao siêu hay liệu trình dài ngày, mà nằm ở Gốc nhìn – Gốc phương pháp – Gốc cách tiếp cận toàn diện và nhân văn sâu sắc.

✴️ GÓC NHÌN CHẨN ĐOÁN: Đâu là bản chất vấn đề?

➡️ Tiêu chí Góc nhìn về chậm nói : THÔNG THƯỜNG sẽ là “Trẻ bị chậm phát triển ngôn ngữ do thiếu kích thích, cần luyện âm, luyện nói” – Nhưng VỚI CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN sẽ là ” Chậm nói là biểu hiện bên ngoài của một rối nhiễu sâu bên trong: cảm xúc, mối liên hệ, tương tác xã hội, tư duy nhận thức và đó mới là cốt lõi cha mẹ cần giúp con để con có khả năng tự phục hổi, tự phát triển”

➡️ Tiêu chí Phân loại mức độ và chẩn đoán vấn đề: THÔNG THƯỜNG sẽ là ” Dựa vào độ tuổi – test chỉ số IQ, ngôn ngữ, hành vi – phân loại theo DSM hoặc chuẩn test và các công cụ sẵn có khác ” Nhưng VỚI CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN sẽ là ” Quan sát đa chiều ngữ cảnh gia đình – tiền sử thai kỳ – hành vi cảm xúc – sự hiện diện của cha mẹ và rất nhiều các tiêu chí khác cần có của màu sắc con hiện tại và của con trẻ thông thường”

➡️ Tiêu chí Chẩn đoán cuối cùng: THÔNG THƯỜNG sẽ là “Con bị rối loạn ngôn ngữ / chậm nói cần luyện phát âm, học kỹ năng / dùng bảng chữ Nhưng VỚI CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN sẽ là “Con đang tổn thương kết nối, thiếu được phản chiếu cảm xúc đúng cách. Cần kích hoạt lại Hệ thống thần kinh cảm giác và cảm xúc – Hệ thống tư duy nhận thức – Hệ thống tư duy ngôn ngữ và giao tiếp gốc và rất nhiều các nội tạng bên trong liên quan “

P/s: Khác biệt cốt lõi: Trong khi nhiều chuyên gia tập trung vào triệu chứng (nói chưa rõ, từ ít…), chuyên gia Phạm Hiền truy vết đến cùng từng ngóc ngách vấn đề con cần và từng ngóc ngách nguyên nhân gốc của từng vấn đề đó và đặc biệt tập trung rất nhiều vào truy vết các tổn thương kết nối từ nhận thức và cảm xúc.

✴️ PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU: Làm thế nào để con tiến bộ?

➡️ Không dạy ngôn ngữ một cách cơ học, mà đánh thức bản năng giao tiếp bằng kết nối Tư duy nhận thức – Cảm xúc gốc – Từ đó ngôn ngữ bật ra tự nhiên bằng tư duy nhận thức và cảm nhận tốt từ môi trường sống qua tự chủ quan sát, đón đầu, cảm nhận, nghe, học hỏi ứng dụng….

➡️ Không chạy theo biểu hiện bên ngoài, mà giúp con phát triển từ gốc – từ động lực muốn kết nối – chứ không phải từ sự lặp lại bị ép buộc như con vẹt hoặc con rô bốt

➡️ Không chỉ cần con trẻ “nói được” là nghĩ con đã được chữa hoặc đã thành công trong can thiệp trị liệu mà con cần đạt đến là đứa trẻ có khả năng giao tiếp thông thường để có khả năng tiếp cận môi trường sống tốt nhất từ đó tự phục hồi và phát triển mở rộng hệ sinh thái cấu trúc phát triển khác của các độ tuổi tiếp theo

➡️ Nền móng vững chắc nhất để cho con có sự phát triển tiếp theo đúng là gia đình nên chuyên gia sẽ chú trọng cao vào việc giúp gia đình kết nối, chữa lành và đồng hành như một hệ thống yêu thương có chủ đích với con. Thay đổi nhận thức phụ huynh bằng cách Cung cấp thông tin, hướng dẫn kỹ thuật cùng với sự Thay đổi toàn diện niềm tin, cách nhìn con, cách tương tác với con. Cho phụ huynh hiểu sự hiện diện của cha mẹ trong hành trình chữa lành cho con là phải trở thành nhân vật chính để học, hiểu, thực hành trị liệu mỗi ngày với con

✴️ Tổng kết 5 điểm khác biệt nổi bật của chuyên gia Phạm Hiền

➡️ Trị liệu từ gốc – không chỉ triệu chứng – Đánh trúng nguyên nhân thật, không lạc hướng và phải đón đầu ngăn chặn các nguy cơ khác

➡️ Ưu tiên cảm xúc, kết nối – không kỹ thuật máy móc – Giúp trẻ thật sự muốn giao tiếp và tự tin giao tiếp

➡️ Phụ huynh là trung tâm trị liệu – Bền vững – không lệ thuộc trung tâm

➡️ Tôn trọng cá nhân hoá từng đứa trẻ – Không nhồi chung, không dập khuôn, không so sánh

➡️ Chữa lành cả gia đình – không chỉ đứa trẻ – Cả nhà thay đổi, không phải chỉ mình con tiến bộ

Đúng vậy! Chuyên gia Phạm Hiền đã nhiều lần cảnh báo mạnh mẽ đến phụ huynh về nguy cơ và hệ lụy nghiêm trọng nếu trẻ chậm nói bị can thiệp sai cách hoặc can thiệp quá muộn. Theo quan điểm của của chuyên gia thì CHẬM NÓI không bao giờ chỉ là CHẬM NÓI, mà nó là một biểu hiện bên ngoài của các bất ổn phát triển sâu hơn, nếu không được định hướng đúng từ đầu, trẻ có thể di chuyển lệch sang các rối loạn nghiêm trọng về hành vi, cảm xúc, trí tuệ, tâm thần và xã hội.

✴️ Không để quan điểm bị sai lệch sẽ dẫn đến nhìn nhận con và trị liệu cho con sai lệch

➡️ Không phải can thiệp sớm là đủ, mà phải can thiệp đúng – đủ – và toàn diện. Nếu sai, trẻ không chỉ chậm nói, mà có thể lệch hẳn sang rối loạn khác nặng nề hơn.

➡️ Chậm nói không nguy hiểm. Can thiệp sai mới nguy hiểm. Đừng ép con học nói khi chưa tìm ra con đang bị tổn thương phát triển bên trong như thế nào

✴️ Những BIẾN CHỨNG NGUY HIỂM nếu can thiệp sai ở trẻ chậm nói

➡️ Tăng động – Giảm chú ý (ADHD tiềm ẩn): Trẻ bị kích thích quá mức, không kiểm soát hành vi. Trở nên hiếu động bất thường, lo âu, mất ngủ, cáu gắt, học mãi không nhớ khi bị lạm dụng dạy sao chụp

➡️ Tự kỷ nhẹ hoặc tự kỷ xã hội (Autism spectrum – ASD): Trẻ co rút, né giao tiếp, lặp đi lặp lại hành vi nếu bị ép nói quá mức . Mất hoàn toàn sự chủ động ngôn ngữ.

➡️ Rối loạn hành vi và cảm xúc: Trẻ bị nhầm là “bướng, lì” nhưng thực chất là rối loạn cảm xúc sau các lần bị trừng phạt khi không nói được. Dẫn đến bạo lực, chống đối, khó kiểm soát, hoặc cực kỳ thụ động, trầm cảm.

➡️ Mất ngôn ngữ cảm xúc vĩnh viễn: Trẻ có thể học được từ, nói được câu – nhưng không biết thể hiện cảm xúc, không biết kết nối. Gọi là “nói được tiếng người nhưng không hiểu lòng người” – thiếu EQ trầm trọng.

➡️ Biến chứng sang các hội chứng học đường: Mất khả năng chú ý, tự học, theo kịp nhịp lớp từ đó học kém, tự ti, bị bạn bè xa lánh. Trẻ có thể sớm hình thành các biểu hiện rối loạn lo âu xã hội, rối loạn ám ảnh sợ.

P/s: Chuyên gia Phạm Hiền thường cảnh báo Chậm nói là tiếng chuông đầu tiên cảnh báo não bộ trẻ có điều gì đó chưa ổn. Nếu bỏ qua – ta có thể bỏ lỡ cơ hội được phục hồi thậm chí cả tương lai của con

Đây là một trong những phân định cực kỳ quan trọng trong phương pháp của chuyên gia Phạm Hiền – giúp trẻ không bị chẩn đoán sai, không bị trị liệu sai, và không để mất giai đoạn vàng phát triển.

✴️ CHẬM NÓI ĐƠN THUẦN

➡️ Trẻ nghe hiểu tốt, phản ứng linh hoạt với lời nói.

➡️ Có nhu cầu giao tiếp, muốn nói nhưng nói chậm.

➡️ Vận động tinh và vận động thô phát triển bình thường.

➡️ Trẻ có giao tiếp mắt – cảm xúc – xã hội tốt.

➡️ Tính khí, cảm xúc ổn định, không có hành vi bất thường.

➡️ Có tiến bộ rõ rệt sau 1–2 tháng can thiệp nhẹ nhàng.

P/s: Nguyên nhân có thể là do Bố mẹ ít nói chuyện, tiếp xúc thiết lập ngôn ngữ không đủ hoặc Con tiếp nhận hai ngôn ngữ (song ngữ) hoặc Trẻ ít đi học, thiếu môi trường giao tiếp. Với trẻ này, can thiệp đúng và sớm sẽ không cần trị liệu lâu dài, có thể theo kịp bạn bè sau vài tháng.

✴️ CHẬM NÓI CÓ NGUY CƠ RỐI LOẠN ( Có thể là các rối loạn ngôn ngữ – phát triển – hành vi)

➡️ Trẻ không hiểu lời người khác nói, hoặc hiểu rất ít.

➡️ Không chủ động tương tác, thích chơi một mình.

➡️ Không có giao tiếp mắt, ít hoặc không biểu cảm.

➡️ Có hành vi bất thường: lặp lại âm thanh, xoay đồ, đập đầu, v.v.

➡️ Phát triển không đồng đều: ngôn ngữ kém, vận động yếu, cảm xúc bộc phát.

➡️ Rất chậm tiến bộ dù đã được can thiệp ngôn ngữ.

➡️ Có dấu hiệu của tăng động – giảm chú ý, tự kỷ, rối loạn cảm xúc.

Theo chuyên gia trị liệu Phạm Hiền, một trong những nguy cơ lớn nhất với trẻ chậm nói là bị can thiệp sai cách – xuất phát từ việc cha mẹ thiếu hiểu biết đúng, hoặc lựa chọn sai cơ sở trị liệu. Điều này dẫn đến hệ lụy nặng nề không chỉ về ngôn ngữ, mà còn về năng lực tư duy nhận thức – tâm lý – hành vi – khả năng học tập – mối quan hệ xã hội.

✴️ CÁC DẤU HIỆU TRẺ CHẬM NÓI BỊ CAN THIỆP SAI

Càng can thiệp càng ít nói hoặc mất hẳn phản ứng giao tiếp: Trẻ không có tiến triển sau 3–6 tháng can thiệp. Có xu hướng tránh nhìn, tránh nghe, né giao tiếp. Có trẻ từng nói được vài từ nhưng sau can thiệp thì “câm lặng” hoàn toàn.

➡️ Nguyên nhân: Bị ép học, ép nói, gây lo lắng hoặc tổn thương não cảm xúc.

Biểu hiện sợ hãi, chống đối khi đi trị liệu: Trong 3 tháng con trẻ không giảm dần các biểu hiện Trẻ khóc thét, nôn ói, cào cấu hoặc nói “con không muốn đi học”. Có dấu hiệu rối loạn lo âu hoặc ám ảnh môi trường can thiệp.

➡️ Nguyên nhân: Cơ sở can thiệp quá nghiêm khắc, không phù hợp tâm lý lứa tuổi.

Không tự khởi phát lời nói – chỉ lặp lại máy móc: Trẻ học được từ nhưng không dùng để giao tiếp tự nhiên. Chỉ lặp theo mẫu, không hiểu ý nghĩa câu nói.

➡️ Nguyên nhân: Phương pháp dạy sai (chỉ dạy nói như vẹt, thiếu kết nối cảm xúc/ngữ cảnh).

Phát sinh rối loạn hành vi hoặc cảm xúc: Trẻ dễ nổi nóng, đập phá, mất kiểm soát. Có biểu hiện trầm cảm nhẹ, mất kết nối với người thân.

➡️ Nguyên nhân: Bị tổn thương tâm lý khi bị “ép” can thiệp sai khi không thấu cảm.

Can thiệp kéo dài mà không đạt mốc phát triển ngôn ngữ cơ bản hoặc không ngăn chặn được các bất ổn khác về Tính cách/ Tâm lý/ Cảm xúc/ Nhận thức/Kỹ năng/Khả năng . Không biết chỉ trỏ đúng và lấy đồ đúng khi được sai vặt đúng cách. Không có cải thiện trong hiểu lời, nghe hiểu, phản ứng với lời nói.

➡️ Nguyên nhân: Không can thiệp đúng thứ tự phát triển ngôn ngữ (nghe – hiểu – phản hồi – nói).

Bị “dán nhãn rối loạn” sai – gây sai lệch can thiệp: Có trẻ chậm nói đơn thuần nhưng bị chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ hoặc ngược lại. Từ đó áp dụng sai chương trình can thiệp, gây tác dụng ngược.

➡️ Nguyên nhân: Chẩn đoán thiếu chuyên sâu, chỉ dựa vào test nhanh – cảm tính.

✴️ Hệ lụy nguy hiểm khi can thiệp sai cho con trẻ chậm nói

➡️ Ngôn ngữ không cải thiện hoặc thụt lùi -> Nguy cơ mất cửa sổ vàng phát triển ngôn ngữ

➡️ Rối loạn cảm xúc, hành vi -> Trẻ dễ mắc thêm lo âu, tăng động, trầm cảm nhẹ

➡️ Giao tiếp xã hội kém, tự thu mình -> Không có bạn, không kết nối, cô lập xã hội

➡️ Ảnh hưởng tư duy nhận thức và trí tuệ học đường -> Mất khả năng tự tư duy để nhận thức và Khó theo kịp chương trình phổ thông sau này

➡️ Mối quan hệ cha mẹ – con rạn nứt -> Trẻ không tin cha mẹ, dễ nổi loạn tuổi lên 6–7

➡️ Chi phí can thiệp kéo dài, hao tổn tâm lực -> Tốn kém mà không đạt kết quả mong muốn nên mất niềm tin và kiệt quệ tinh thần cả cha mẹ, con trẻ

P/s: Hãy nhớ Không có trẻ chậm nói đơn thuần nào mà can thiệp sai vẫn tiến bộ. Và một khi đã can thiệp sai, có khi phải mất gấp đôi thời gian để ‘gỡ lỗi’ trước khi bắt đầu lại từ đầu.

✴️ Dấu hiệu trẻ chậm nói đơn thuần

Thường do môi trường sống thiếu tương tác, thiết bị điện tử hoặc có thể do năng lực cảm nhận thế giới quan để bắt chước ngôn ngữ yếu và phản ứng tư duy tự học hỏi ngôn ngữ, giao tiếp thụ động…

➡️ Chậm phát âm: Trẻ trên 18 tháng nhưng chưa nói được từ đơn như “ba”, “mẹ”, “bô”,…

➡️ Nói ít hơn bạn cùng tuổi: Ví dụ 2 tuổi nhưng mới chỉ nói được vài từ đơn, không ghép câu.

➡️ Chỉ yêu cầu bằng hành động thay vì lời nói: Trẻ kéo tay người lớn, chỉ tay nhưng không nói.

➡️ Phát âm chưa rõ hoặc bị ngọng kéo dài.

➡️ Không bắt chước lời người lớn và hạn chế trong việc lặp lại từ ngữ đơn giản khi có nhu cầu

➡️ Tuy nói ít hoặc chưa nói nhưng vẫn hiểu chỉ dẫn, phản ứng tốt khi gọi tên.

P/s: Nhóm này hoàn toàn có thể cải thiện nếu can thiệp sớm qua giao tiếp – trò chơi – trị liệu ngôn ngữ đúng cách.

✴️ Dấu hiệu rối loạn ngôn ngữ có nguy cơ nghiêm trọng

Có thể liên quan đến các rối loạn phát triển thần kinh và các rối loạn phát triển khác

⚠️ Trẻ từ 18 tháng đến 3 tuổi:

➡️ Không bập bẹ, không phát âm các âm cơ bản như “ba-ba”, “ma-ma”.

➡️ Không phản ứng khi gọi tên, dù thính lực bình thường.

➡️ Không chỉ tay, không nhìn vào mắt người đối thoại.

➡️ Không có giao tiếp hai chiều, không dùng cử chỉ để giao tiếp.

➡️ Không biết thể hiện nhu cầu bằng lời nói hay hành động.

➡️ Chỉ lặp lại lời người khác (echolalia), không nói theo ngữ cảnh.

➡️ Chậm nói kèm khó khăn về tương tác xã hội: không chơi giả vờ, không chơi với trẻ khác.

➡️ Trẻ có hành vi lặp đi lặp lại, thu mình trong thế giới riêng.

⚠️ Trẻ từ 3–6 tuổi:

➡️ Không nói được câu dài, hoặc chỉ nói lặp lại cụm từ quen thuộc.

➡️ Không biết trả lời câu hỏi “cái gì”, “ở đâu”, “làm gì”, “tại sao”, “cảm thấy thế nào”

➡️ Ngữ pháp sai, câu không hoàn chỉnh lâu dài.

➡️ Không kể được câu chuyện đơn giản theo tranh.

➡️ Ngôn ngữ nghèo nàn, ít từ vựng.

➡️ Nghe không hiểu câu dài, không tuân theo được chỉ dẫn 2–3 bước.

P/s: Nhóm này cần được thăm khám tâm lý chuyên sâu để xác định nguyên nhân: Rối loạn ngôn ngữ đơn thuần, rối loạn phổ tự kỷ, chậm phát triển trí tuệ, hay do yếu tố môi trường – tâm lý.

✴️ Dấu hiệu chi tiết theo thang phát triển

➡️ Tiêu chí Phản ứng khi gọi tên – Chậm nói đơn thuần: CÓ nhưng không đều – Rối loạn ngôn ngữ hoặc khác: THƯỜNG LÀ KHÔNG

➡️ Tiêu chí Giao tiếp mắt – Chậm nói đơn thuần: CÓ nhưng không đều – Rối loạn ngôn ngữ hoặc khác: CHẬM CHẠP HOẶC KHÔNG

➡️ Tiêu chí Cử chỉ đi kèm lời nói – Chậm nói đơn thuần: CÓ nhưng không đều – Rối loạn ngôn ngữ hoặc khác: KHÔNG RÕ RÀNG HOẶC KHÔNG

➡️ Tiêu chí Biết bắt chước hành động/âm thanh – Chậm nói đơn thuần: CÓ nhưng không đều – Rối loạn ngôn ngữ hoặc khác: HẠN CHẾ, CHẬM HOẶC KHÔNG

➡️ Tiêu chí Tương tác xã hội – Chậm nói đơn thuần: CÓ nhưng không đều – Rối loạn ngôn ngữ hoặc khác: KHÔNG QUAN TÂM ĐẾN AI

➡️ Tiêu chí Sự tiến bộ theo thời gian – Chậm nói đơn thuần: CÓ nếu Cải thiện theo từng tuần nếu được can thiệp đúng – Rối loạn ngôn ngữ hoặc khác: ÍT hoặc CHẬM hoặc KHÓ KHĂN

✴️ Khuyến nghị để con có cơ hội phục hồi đúng

➡️ Không chủ quan chờ con “tự nói” sau 2 tuổi.

➡️ Tuyệt đối không lạm dụng điện thoại – Tti vi, công nghệ khác cho trẻ dưới 3 tuổi.

➡️ Đưa con đi đánh giá tâm lý và ngôn ngữ toàn diện nếu sau 2 tuổi không nói hoặc có các dấu hiệu bất thường.

➡️ Can thiệp sớm theo hướng cá nhân hoá, không dùng các bài luyện tập rập khuôn

➡️ Chậm nói không chỉ là không nói. Đó có thể là lời cảnh báo của tự kỷ, của chậm phát triển trí tuệ, của sự tổn thương tinh thần kéo dài. Đừng chờ con biết nói mới đi khám – lúc đó là quá muộn!”

➡️ Đừng trì hoãn cho rằng bố nó, mẹ nó hoặc anh chị nó 4 tuổi mới nói, nên con tôi chắc cũng thế’. Phai nhớ không ai giống ai cả. Trẻ 18 tháng mà chưa nói được 5 từ đơn – cần đi đánh giá ngay, không cần chờ!”

➡️ Nghe người ngoài bảo chờ 3 tuổi sẽ tự nói – là cách giết chết ‘giai đoạn vàng’ của con.”. Can thiệp sớm trước 36 tháng là “cửa sổ vàng”, không chờ “đến lúc con sẽ nói”.

➡️ Đừng nhầm lẫn và chủ quan con đã nói vì Trẻ nói nhiều vẫn có thể bị rối loạn ngôn ngữ – đừng nhầm lẫn!”. Tôi từng tiếp nhận nhiều bé nói liến thoắng, dùng cả câu dài… nhưng không bao giờ đúng ngữ cảnh, không hiểu người khác nói gì – đó là rối loạn ngôn ngữ biểu đạt kèm tiếp nhận.”

➡️ Đừng nghĩ cứ nói được là phát triển bình thường – phải có sự hiểu, tương tác và ngữ cảnh đúng.

➡️ Chú ý quan sát và phát hiện các dấu hiệu cảnh báo sớm chi tiết theo từng độ tuổi. Bởi những dấu hiệu này giúp phân biệt giữa chậm nói đơn thuần và rối loạn ngôn ngữ nghiêm trọng, từ đó can thiệp đúng giai đoạn vàng.

⚠️ Giai đoạn từ 0 – 6 tháng tuổi

➡️ Không phản ứng với âm thanh lớn hoặc giọng nói.

➡️ Không quay đầu về phía có tiếng người gọi.

➡️ Không phát ra các âm thanh đơn như “a”, “ư”, “gừ gừ”.

➡️ Không giao tiếp bằng mắt hoặc mỉm cười khi được gọi tên, chơi đùa.

P/s: Giai đoạn này cần phát triển phản xạ âm thanh – nền tảng cho ngôn ngữ sau này.

⚠️ Giai đoạn 6 – 12 tháng tuổi

➡️ Không bập bẹ các âm như “ba-ba”, “ma-ma”.

➡️ Không phản ứng khi được gọi tên.

➡️ Không phát ra âm thanh để thu hút sự chú ý.

➡️ Không sử dụng các cử chỉ như vẫy tay, lắc đầu.

P/s: Nếu không có giao tiếp bằng âm thanh hay cử chỉ – cần kiểm tra thính lực và phát triển não bộ.

⚠️ Giai đoạn 12 – 18 tháng tuổi

➡️ Chưa nói được từ đơn rõ nghĩa nào (ba, mẹ, ăn, uống…).

➡️ Không chỉ tay, không biết lắc đầu khi từ chối.

➡️ Không hiểu những chỉ dẫn đơn giản như “lại đây”, “đưa mẹ”.

➡️ Không cố gắng bắt chước từ ngữ người lớn.

P/s: Đây là giai đoạn “cửa sổ vàng” để bắt đầu ngôn ngữ. Nếu trẻ không tiến bộ, phải đánh giá ngay.

⚠️ Giai đoạn 18 – 24 tháng tuổi

➡️ Nói được <10 từ đơn.

➡️ Không ghép được 2 từ (ví dụ: “ăn cơm”, “mẹ bế”).

➡️ Không sử dụng lời nói để yêu cầu (chỉ kéo tay, chỉ vật).

➡️ Hiểu lời nói rất kém, hoặc không phản ứng khi nói chuyện.

P/s: Nếu sau 2 tuổi chưa nói hoặc không giao tiếp bằng lời – nguy cơ rối loạn ngôn ngữ cao.

⚠️ Giai đoạn 2 – 3 tuổi

➡️ Không nói được câu có chủ – vị (“Con ăn”, “Mẹ ơi bế con”).

➡️ Không trả lời được các câu hỏi đơn giản (“Cái gì đây?”, “Con tên gì?”).

➡️ Chỉ lặp lại lời người khác (nhại) thay vì trả lời đúng ngữ cảnh.

➡️ Không biết chơi đóng vai, chơi giả vờ (chơi búp bê, nấu ăn…).

➡️ Không biết kể lại những gì vừa xảy ra, kể cả bằng vài từ đơn.

P/s: Rối loạn biểu đạt hoặc rối loạn tiếp nhận ngôn ngữ thường biểu hiện rõ trong giai đoạn này.

⚠️ Giai đoạn 3 – 4 tuổi

➡️ Câu nói ngắt quãng, lộn xộn, sai trật tự từ.

➡️ Không sử dụng từ để thể hiện mong muốn (chỉ khóc, cáu).

➡️ Vẫn không hiểu chỉ dẫn 2 bước: “Con lấy giày rồi ra ngoài nhé”.

➡️ Không thể kể chuyện đơn giản bằng lời.

➡️ Không có bạn bè chơi, không biết chia sẻ cảm xúc.

P/s: Lúc này, nếu ngôn ngữ không theo kịp – nguy cơ chậm trí tuệ, rối loạn phổ tự kỷ hoặc RL ngôn ngữ.

⚠️ Giai đoạn 4 – 6 tuổi

➡️Dùng sai cấu trúc ngữ pháp liên tục: “Con ăn cơm mẹ”, “Đi chơi con”.

➡️Không diễn đạt được nhu cầu – cảm xúc bằng lời.

➡️Dùng từ ngữ không phù hợp bối cảnh.

➡️Phát âm sai, ngọng kéo dài (trừ một số âm khó như “r”, “s”).

➡️Không hiểu chuyện kể – không phản hồi hoặc trả lời sai hoàn toàn.

P/s: Nếu trẻ không thể giao tiếp hiệu quả ở tuổi vào lớp 1 – cần can thiệp chuyên sâu ngay.

II. GÓC NHÌN CỦA PHỤ HUYNH VỀ LIỆU PHÁP TRỊ LIỆU CỦA CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN

Phụ huynh có con phải giáo dục đặc biệt – nhất là những bé chậm nói, chậm trí tuệ, tăng động động giảm chú ý, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn phát triển hành vi và cảm xúc, nghi ngờ tự kỷ, rối loạn tự kỷ, rối loạn phát triển khác… – thường có những chia sẻ rất chấn động, cảm động và thay đổi sâu sắc sau khi tiếp cận chuyên gia tâm lý Phạm Hiền.

1. Trải nghiệm trước khi gặp chuyên gia Phạm Hiền

➡️ Tôi đã từng đưa con đi hết viện này đến trung tâm kia. Bác sĩ thì nói nghi con bị tự kỷ, các chuyên viên can thiệp và các trung tâm can thiệp cũng vậy . Tôi thấy bất an, tuyệt vọng và hoảng sợ vô cùng

➡️ Con tôi bị chẩn đoán là ‘rối loạn ngôn ngữ biểu đạt’, đã học ngôn ngữ trị liệu gần 1 năm nhưng vẫn không giao tiếp, càng ngày càng thu mình. Tôi không biết sai ở đâu.

➡️ Tôi từng nghĩ mình là người mẹ tồi, đã không phát hiện ra con có vấn đề sớm. Tôi chỉ còn biết nghe ai bảo sao thì làm vậy.

➡️ Tôi đi khắp mọi nơi ở trong nước và cả nước ngoài. Mỗi nơi là một phác đồ khác nhau nhưng không có kết quả khiến tôi luôn bị thất vọng, dằn vặt về số phận hết thuốc chữa của tôi và con.

2. Khoảnh khắc “vỡ ra” khi được chuyên gia Phạm Hiền tư vấn

♦️ Bất ngờ vì bức tranh đánh giá toàn diện

➡️ Lần đầu tiên có người không hỏi con tôi nói được bao nhiêu từ mà đi sâu chi tiết vào từng vấn đề trong cách tôi và gia đình đang nuôi dạy con, cách tôi đang áp dụng can thiệp cho con từ đó cho tôi biết tôi và gia đình đang sai ở đâu từ đó gây ra vấn đề gì khiến con không thể phục hồi thậm chí chệch hướng nặng hơn.

➡️ Lần đầu tiên có người không chẩn đoán kiểu chỉ thả cái tên bệnh hoặc vấn đề của con tôi sau đó để đấy mà Bác chuyên gia đã cho tôi biết một cách rất kỹ lưỡng từng ngóc ngách vấn đề của con, từng ngóc ngách căn nguyên trong từng tình huống tương tác thường ngày nhất và giúp tôi phương pháp tỉ mỉ để tôi và gia đình có thể tự vận hành.

➡️ Lần đầu tiên tôi mới biết: Con Chậm nói hay tự kỷ hay tăng động hay có bất kỳ khiếm khuyết nào không đáng sợ – Cái đáng sợ lớn nhất là cha mẹ không hiểu con đang bị tổn thương điều gì và có các vấn đề nào là rào cản ở bên trong con từ đó tạo ra bên ngoài như thế này.

➡️ Lần đầu tiên tôi có được 3 điều tâm huyết khi tư vấn từ chuyên gia: SÁNG RÕ (Vì hiểu đúng nguyên nhân sâu xa các vấn đề của con – AN TÂM (vì không bị vội vã gắn mác, không còn bị dẫn dắt bởi sợ hãi) – ĐƯỢC TIẾP SỨC (vì có lộ trình rõ ràng, nhân văn, cảm xúc – chứ không phải ép buộc)

➡️ Chuyên gia Phạm Hiền giúp tôi hiểu rằng mỗi vấn đề của đứa trẻ đặc biệt không thể chỉ chẩn đoán từ biểu hiện bên ngoài và đã tự mặc định đứa trẻ ấy bị như vậy. Vì nó sẽ là sự vô cùng chủ quan, vô cùng hời hợt khi mà biểu hiện bên ngoài chỉ là kết quả, hay hậu quả của tất cả các vận hành bên trong mà ta không nhìn thấy được. Đó mới là cốt lõi phải tìm ra, phải biết để can thiệp, trị liệu từ gốc toàn diện thay bằng đơn lẻ chữa biểu hiện hiện tại thì lại gây hệ lụy khiến con hỏng hết các nội lực và năng lực tự phục hồi bên trong.

➡️ Lần đầu tiên tôi bị mắng thậm tệ bởi sự bị ám thị đến mức cố thủ với câu nói ” Con em bị tự kỷ mà” hoặc ” Mỗi bác chẩn đoán như thế này trong khi cả chục nơi em đã đi trong nhiều năm nay thì sao em tin được bác”. Sau bị mắng bác cho tôi bình tĩnh để suy ngẫm thực tế nhất từng ngóc ngách vấn đề của con chứ không phải chỉ cái tên ” Con tôi bị tự kỷ hoặc con tôi bị chậm nói hoặc con tôi bị tăng động”. Bác nói ” Nếu em cứ chỉ nhìn vào cái tên của chẩn đoán và cố thủ dãn nhãn con như vậy thì tốt nhất đừng đi chữa ở đâu nữa, vì không có kết quả đâu thậm chí tệ hơn đấy”. Trong khi các nơi khác thậm chí còn cố tình nhấn mạnh cái tên con tôi có vấn đề đó, con tôi bị bệnh đó… đó khiến tôi ngột ngạt và bế tắc đến hoang mang.

♦️ Bất ngờ vì bức tranh phương pháp không bị thổi phồng

➡️ Lần đầu tiên sau khi đi rất nhiều nơi tôi được Bác chuyên gia Phạm Hiền khai phóng hũ nút tối trong đầu rằng dạy trẻ đặc biệt khó lắm, phải có chuyên môn mới dạy được con chứ, mình có biết gì đâu mà cn thiệp được cho con chứ …và sau đó là sự dính mắc phụ thuộc vào những người phải có chuyên môn, những trung tâm – thậm chí có nhiều trung tâm còn không muốn con mình phục hồi nhanh nên mất đi cơ hội vàng của con lúc nào chẳng hay. Tôi hiểu rằng ” Chẳng có gì cha mẹ không thể giúp được con nếu như không bị coi mọi vấn đề của con như hết thuốc chữa – Càng chẳng có gì tôi không thể can thiệp hay dạy được con mình nếu tôi mở trí não ra để biết con tôi cần gì cho cuộc sống tự lập của nó và chỉ cần tôi và gia đình kiên trì, nhẫn nại, tỉ mỉ từng bước nhỏ thôi con tôi vẫn có quá nhiều cơ hội”

➡️ Lần đầu tiên tôi được cúi xuống để ngắm nhìn, để suy ngẫm xung quanh cuộc sống đời thường nhất và nhận ra, và tin vào chính mình rằng ” À mọi phương pháp vốn có của người cha, người mẹ của cuộc sống nó ở ngay dưới chân mình mà sao cứ phải đi tìm xa, sao cứ phải ngẩng cổ lên với những thứ cao tít mà phi thực tế với cái con cần cho chính con và cuộc sống của con”

➡️ Lần đầu tiên tôi bị mắng thậm tệ bởi sự bị ám thị đến mức cố thủ với câu nói ” Em đã làm rồi nhưng không được” hoặc ” Bác có phương pháp nào mới hơn không” hoặc ” Em tưởng phải có cách nào đặc biệt chứ”. Bác ấy cho tôi thấy sự bị vào bẫy với tên phương pháp này nọ, tên phương pháp tây ta để đánh vào tâm lý có bệnh thì vái tứ phương rồi cứ đi lung tung, nạp vào cho con lộn xộn nhưng cái đơn giản nhất con cần được luyện để làm được trong thực tế cuộc sống thì không có”. Tôi giật mình vì nhận ra tôi đã bị tẩy não mà cứ lao đi tìm phương pháp, tìm nơi như thiêu thân nhưng chẳng giúp tôi và con có gì.

♦️ Bất ngờ vì Tôi được đánh thức khỏi các u mê bế tắc và được giải phóng khỏi cảm giác tội lỗi

➡️ Tôi bị ‘đánh thức’ khi bác chuyên gia hỏi: Con bạn có thực sự biết vui hay buồn khi ở cạnh bạn không? Hay con chỉ đang cố chịu đựng bạn ép để chỉ cần nó nói?

➡️ Lần đầu tiên tôi được có người thẳng thắn nhất cho biết từng nhận thức sai, từng tâm lý hay cảm xúc hay hành động của tôi, của gia đình tôi sai khiến con không những khó phục hồi mà con có các nguy cơ sang rất nhiều các biến chứng rối loạn khác trong các độ tuổi tiếp theo. Lúc đầu tôi phản kháng vì chạm tự ái, vì không dám nhìn nhận lỗi từ tôi, vì biện hộ cho sự tôi thương con tôi và sẵn sàng hi sinh cho con cơ mà, vì ấm ức do đi vài chục nơi có ở đâu dám đưa ra vấn đề sai này đâu, vì cố thủ trong các sự bị ám thị phải được vuốt ve hoặc mình đang khổ sở và tổn thương cần được nhẹ nhàng mà….Nhưng sau sự thẳng thắn đến gây sốc đó bác sẽ ôn tồn, ân cần cho tôi biết ” Con trẻ đã chẳng thể tự biết gì, chẳng thể tự làm gì được – mà cha mẹ chúng còn không biết mình phải làm gì cho con, không biết mình đang làm sai khiến con nặng hơn thì sao con được phục hồi đúng”

➡️ Bác chuyên gia cố tình tranh luận đến cùng các trái chiều trong tôi, cho tôi bộc lộ hết những gai góc xù xì của mình sau đó bác ấy chỉ nói một câu ” Không phải lỗi của bạn hay con bạn. Bạn đang là người mẹ bị tổn thương nhưng sau hôm nay không gai góc như vậy nữa vì nó khiến bạn tổn thương sâu hơn trong sự tiêu cực và con bạn là người thiệt thòi nhất từ chính bạn. Bác ấy giúp tôi chữa lành, giúp tôi hiểu con đang thiếu khuyết rất nhiều thứ khác cốt lõi cần nhất , chứ không phải chỉ là chậm nói hay tự kỷ..’. Sau tranh luận đó tôi được nói, được xả ra hết các ấm ức, các uất ức, các cam chịu, các bế tắc và thấy thật nhẹ nhàng.

♦️ Hiểu được vì sao trước giờ can thiệp không hiệu quả

➡️ Lần đầu tiên sau nhiều năm tôi hiểu một giá trị cốt lõi rằng: Hóa ra tôi sai vì chỉ chăm chăm đi học ngôn ngữ, mà con thì đang bị tổn thương cảm xúc, không có nền tảng nhận thức. Bác ấy đã cho tôi thấy gốc rễ thực sự với rất nhiều các ngóc ngách

➡️ Lần đầu tiên Tôi cứ tưởng phải tìm nơi tốt nhất để dạy con phát âm. Nhưng giờ tôi mới hiểu rằng mình mới là người phải can thiệp, trị liệu chính cho con mỗi ngày chứ không phải trung tâm hay giáo viên có chuyên môn

3. Sự thay đổi sau khi áp dụng tư vấn và trị liệu từ phương pháp

♦️ Con được chữa lành đúng từ Gốc tự phải phục hồi và tự phải phát triển

➡️ Đó là sự cải thiện và thay đổi toàn diện từ Tư duy/Tính cách/Tâm lý/Cảm xúc/Hành vi/Kỹ năng/Khả năng chứ không phải chỉ vấn đề bất ổn hiện tại.

➡️ Con đã tự có khả năng mở rộng và phát triển các học hỏi kiến thức, ngôn ngữ, giao tiếp, cảm xúc, hành vi, kỹ năng, khả năng đến bất ngờ chứ không phải chỉ dập khuôn đóng trong một dúm dập khuôn sao chụp từ can thiệp sai như trước.

♦️ Cha mẹ và cả gia đình được chữa lành đúng từ Gốc của sự hiểu biết về con

➡️ Tôi từ một người mẹ sợ hãi, ám ảnh, tựu ti, trăn trở trong bế tắc… vì bệnh án của con – Giờ đây tôi có thể cười với con mỗi ngày

➡️ Tôi từ một người tổn thương tiêu cực không dám chấp nhận con mình có vấn đề để bị phán xét nên luôn tìm cách giấu mình và con mình đi – Giờ đây mẹ con tôi đi mọi lúc mọi nơi cùng nhau vui vẻ

➡️ Tôi từng là người mẹ chỉ biết quát tháo, la hét và đổ lỗi cho tôi, cho con bất hạnh – Giờ đây tôi hiểu con tôi chí có duy nhất một vấn đề là nó cần tôi kiên trì để dạy cho nó mọi thứ mà nó chưa biết

➡️ Tôi hiểu rằng con tôi không cần phải trở thành ‘bình thường’ như con nhà người ta – Con chỉ cần được yêu thương đúng cách bởi sự dạy con đúng cách và phát triển cẩn trọng theo cách riêng để con sinh tồn và an toàn tốt nhất.

➡️ Tôi hiểu rằng “Chẳng có đứa trẻ nào khiếm khuyết nếu cha mẹ chúng luôn dạy chúng mọi vấn đề để biết, dạy chúng làm được mọi thứ tự lập cho chúng. Đứa trẻ bình thường cũng phải dạy cả chục lần và con tôi chỉ cần dạy cả 100 hay cả 1000 lần là kiểu gì nó cũng biết và làm được”

➡️ Tôi hiểu rằng ” Sự tích cực đúng đắn trong sự hiểu biết đúng đắn của tôi và cả gia đình là kim chỉ nam quan trọng nhất giúp được con tôi tốt nhất chứ không phải quá nhiều sự cao siêu nào đó”

➡️ Tôi và gia đình tôi đã thấu hiểu con từ đó thấu hiểu nhau rất nhiều: Thay bằng luôn xung đột tạo thêm áp lực cho nhau, cho con – Giờ đây chúng tôi là một hệ thống gia đình nhất quán vui vẻ cho con môi trường sống an toàn và hạnh phúc

➡️ Đặc biệt tôi được chữa lành vì được thấu hiểu cả cái được và cái sai – Từ đó tôi không phải che giấu mình, che giấu con thậm chí tự tin, tự hào lan tỏa nó với tâm thế nhẹ nhàng, dễ chịu

Đây là một câu hỏi rất rất thật mà các phụ huynh thường hay hỏi nhau . Bởi vì trị liệu cho con – đặc biệt theo hướng chuyên gia Phạm Hiền – không chỉ là chuyện “cho con đi học” mà là một hành trình cha mẹ phải tự lột xác, vượt qua chính mình để đồng hành cùng con. Chuyên gia Phạm Hiền tư vấn và trị liệu con trẻ đặc biệt bằng Phương pháp ĐỒNG HÀNH 3 CHIỀU CÙNG LÚC

➡️ Với con: Được trị liệu toàn diện để có khả năng tự phục hồi và tự phát triển trong các độ tuổi khác nhau – Được tôn trọng kết nối, khơi gọi nội lực tự phát triển từ được yêu thương đúng cách
➡️ Với cha mẹ: Được trị liệu từ sự phải biết phương pháp, biết đón đầu tâm lý và khuynh hướng của con trong hiện tại, trong các độ tuổi tiếp theo để là chuyên gia của chính con – Thoát khỏi các nội tâm tiêu cực từ mặc cảm, tự ti hoặc chưa tập trung vào con để học lại cách làm cha mẹ với cả LÝ TRÍ VÀ TRÁI TIM ĐÚNG, ĐỦ.
➡️ Với ông bà và người thân: Thống nhất, nhất quán, cùng chiều cho con yêu thương, trách nhiệm đúng thay bằng đổ lỗi, phán xét, đôi co mỗi người làm theo một ý chỉ để thỏa mãn cái cho là đúng của riêng mình nhưng không phải là đúng với con.

1. Có áp lực không? – Có chứ rất áp lực -> Nhưng là áp lực tích cực

♦️ Áp lực lớn nhất không phải từ con, mà từ chính cha mẹ:

➡️ Bạn sẽ phải gạt bỏ kỳ vọng, sĩ diện và sự so sánh với con người khác. Vì con bạn là của bạn với tâm thế, với năng lực thực của bạn và con – Còn con nhà người ta có màu sắc của mẹ con và gia dình người ta nên nếu so sánh là sự thiếu căn cứ xác thực.

➡️ Bạn phải thay đổi cách nuôi dạy mà bạn từng tin là đúng, để học lại cách kết nối – cảm nhận – phản ứng với con theo một cách hoàn toàn mới – Bắt buộc bạn phải lắng nghe và học từng chỉ dẫn của chuyên gia để phải thực hiện mọi lúc mọi nơi trong các tình huống cụ thể đã được đưa vào kế hoạch. Thậm chí bạn phải phá vỡ cả sự cố thủ cho rằng ” Biết hết rồi” hoặc ” Làm rồi nhưng không hiệu quả” bởi chuyên gia sẽ cho bạn biết tại sao không hiệu quả và làm đi theo cách của chuyên gia với sự nhẫn nại thay bằng kêu than, thay bằng chủ quan thì chắc chắn sẽ ra được hiệu quả.

➡️ Bạn không còn giao phó cho “trung tâm” hay “chuyên viên trị liệu” mà phải là người đồng hành trực tiếp với con mỗi ngày. Vì với chuyên gia Phạm Hiền thì Không có buổi can thiệp/ trị liệu nào quan trọng hơn bằng việc bạn ngồi cạnh con mỗi ngày mà thực sự nhìn thấy con đang cảm thấy gì, đã có gì, vẫn yếu gì và cần tiếp theo là gì

♦️ Áp lực nằm ở việc phải sống chậm lại, yêu con đúng cách – khi chính bạn cũng từng bị tổn thương từ quá khứ nuôi dạy của mình.

➡️ Bạn phải bỏ rất nhiều thời gian, công sức để chữa cho mình, cho con, cho gia đình

➡️ Bạn phải sống chậm lại để tỉ mỉ đồng hành cùng con nên chẳng có thời gian cho riêng mình với các thú vui, hưởng thụ cá nhân

➡️ Bạn phải chống chọi, chiến đấu để gạt bỏ mọi nhiễu loạn giữa kỳ vọng và thất vọng để có ý chí nghị lực đến cùng với con cán đích với từng vấn đề nhỏ

➡️ Bạn phải chiến đấu để vượt qua chính mình khi xót con, phục vụ con, đáp ứng cho con vô đối và vô lối chỉ để thỏa mãn cảm xúc bản thân hoặc chỉ để con không phiền

➡️ Bạn phải học và phải thực hành liên tục các phương pháp liên tục theo chỉ dẫn để tạo ra sự phục hồi vơi mục tiêu từng tuần, từng tháng

2. Kết quả có xứng đáng không? – Đương nhiên phải có và Rất xứng đáng -> Nhưng không đến nhanh.

♦️ Điều quý nhất không phải là con nói được bao nhiêu từ – mà là:

➡️ Con có chủ động đế muốn nói hay không

➡️ Con tìm lại được niềm vui mong muốn để nói được

➡️ Con hồn nhiên, vui vẻ và có nhu cầu kết nối ánh mắt, nắm tay, tự ôm mẹ, cười khi gọi ba

➡️ Con có cảm nhận, con có cảm giác để con biết thế nào là nguy hiểm, thế nào là được và không được

➡️ Con biết bộc lộ cảm xúc đúng với các tình huống con gặp trong cuộc sống

➡️ Con muốn tương tác với người khác, chứ không trốn vào thế giới riêng hoặc vô thức lướt qua

➡️ Con không còn căng đét thần kinh để gào khóc, quẫy đạp đến cùng trong vô thức

➡️ Cha mẹ không phải hoang mang mất phương hướng chẳng biết đường nào đi để dạy con đúng

➡️ Cha mẹ tự tin nắm chắc các cách, các phương pháp thậm chí đón đầu được để tự dạy con mọi lúc, mọi nơi mà không phải phụ thuộc vào ai hay bất cứ điều gì

➡️ Cha mẹ không còn sợ hay xấu hổ về con nữa, mà hiểu con, yêu con thật sự với chính màu sắc của con

… Và còn rất nhiều thứ các con cần trong cả hành trình chữa lành khả năng tự lớn của chính con

3. Làm sao để vượt qua chính mình trong quá trình trị liệu cùng con?

Khi một đứa trẻ cần can thiệp, hay trị liệu đặc biệt. Điều đó đồng nghĩa với việc gia đình đã có tổn thương ở hệ sinh thái cảm xúc – tương tác – niềm tin – kỳ vọng. Và quá trình trị liệu đúng cách sẽ không chỉ giúp con phục hổi, phát triển mà còn giúp cha mẹ và cả nhà trở về với nhau một cách sâu sắc hơn.

♦️ Có 3 bước rất thật – rất người – mà nhiều phụ huynh từng làm được:

Bước 1: Chấp nhận rằng mình cũng cần được chữa lành

➡️ Dừng dạy dỗ bằng la mắng, ép buộc hoặc kiểu khi con không hợp tác, mình dễ phát cáu, bất lực, buông xuôi.

➡️ Hãy nhớ “Bạn không thể dạy một đứa trẻ tổn thương bằng trái tim bị tổn thương.”

➡️ Hãy học cách dừng lại, quan sát cảm xúc mình. Hãy nhờ tư vấn. Hãy chia sẻ. Hãy cho mình được yếu đuối mỗi khi mình căng thẳng và bế tắc thay bằng cứ gồng gánh đến cùng

Bước 2: Buông xuống cái tôi, kỳ vọng và nhãn mác

➡️ ĐỪNG HỎI “Khi nào con tôi nói như người khác?” HÃY HỎI “Hôm nay con có vui không? Có cười không? Có nhìn tôi bằng ánh mắt tin tưởng không và tôi phải làm gì để giúp con tiếp theo?”

➡️ Hãy nhớ rằng khi càng gấp, càng hỏng. Nên hãy chậm lại, để yêu con như một đứa trẻ – không phải một dự án cải tạo hay sửa chữa gấp

Bước 3: Kỷ luật với sự kiên trì, từng ngày một

➡️ Ép bản thân vào kế hoạch cụ thể trong Áp dụng đều đặn hàng ngày các nguyên tắc mà chuyên gia hướng dẫn – Bởi con bạn cần bạn nhất và cần hơn hết thẩy các chuyên gai hay bất kỳ nơi nào khác

➡️ Nỗ lực chiến đấu đến cùng cho đến khi đạt được bằng cách hãy hỏi chi tiết các chỉ dẫn và quyết đoán thực hiện khi được chỉ dẫn tiếp theo từ chuyên gia thay bằng bỏ ngang giữa đường vì chán nản, kêu than, không có niềm tin….- Bởi bạn không cần giỏi ngay. Chỉ cần không bỏ cuộc.

♦️ Hiểu đúng về giá trị của đồng hành can thiệp, trị liệu cho con

KHI CON ĐƯỢC CHỮA LÀNH TOÀN DIỆN

➡️ Chữa lành cho CON – từ tổn thương cảm xúc đến bật phát triển nội lực: Con không còn bị nhìn như “đứa trẻ có vấn đề”

➡️ Con trẻ được coi là người đang tổn thương, không bị gọi là “bệnh”, không bị ép phải “bình thường hóa”.

➡️ Trẻ được yêu thương, tin tưởng và đối xử như một con người thực sự, chứ không phải một “ca khó”.

➡️ Không bị ép học – mà được tạo môi trường cảm xúc an toàn trong kỷ luật đùng cách

➡️ Trẻ có lại niềm tin với người lớn, bắt đầu muốn giao tiếp, muốn mở lòng.

➡️ Con trẻ được chữa lành cảm xúc và nội tạng vấn đề bên trong nên tự có khả năng tự dịch chuyển từ bị động sang chủ động phát triển

➡️ Khi trẻ được chữa lành đúng cách, ngôn ngữ, kỹ năng sống, cảm xúc… bật ra một cách tự nhiên – không gượng ép và Trẻ trở nên tự tin, linh hoạt, biết yêu – biết phản hồi yêu thương.

KHI CHA MẸ ĐƯỢC CHỮA LÀNH CÙNG CON

➡️ Thay đổi từ dằn vặt bản thân trong tội lỗi, bất lực đến sự thấu hiểu con và hiểu chính mình – Từ đó không truyền năng lượng xấu, độc hại và u ám lên con

➡️ Thảy đổi từ mặc cảm giấu con đi đến sự tự tin làm cha mẹ – Đặc biệt giải thoát được nỗi sợ rất sợ, sự rất xấu hổ, sự rất áp lực vì con khác biệt mà muốn “buông con” để sẵn sàng đi lại từ đầu để giúp cpn lại thêm nhiều lần nữa.

➡️ Hiểu được đúng đắn rằng Con không sai – và mình cũng không phải người cha, người mẹ thất bại – Chỉ là chưa từng được hướng dẫn để hiểu con đúng và làm đúng cùng con mà thôi.

➡️ Học lại cách yêu thương con – mà không kiểm soát sự nóng vội. – Cha mẹ được dạy cách giao tiếp với con bằng ánh mắt, cảm xúc, chờ đợi, tôn trọng – Thay vì ra lệnh, ép buộc. Từ đó hình thành kết nối thật sự giữa cha mẹ – con cái, điều mà trước đây tưởng như đã mất.

➡️ Cha mẹ cũng được chữa lành nội tâm khi hiểu ra “Tôi đang học cách làm mẹ lại từ đầu.” và “Tôi cũng là một đứa trẻ từng tổn thương – và con tôi đang dạy tôi quay về chính mình.”

➡️ Chữa lành cho GIA ĐÌNH – từ rạn vỡ đến yêu thương lại: Vợ chồng hiểu nhau hơn qua hành trình đồng hành nên học lại cách yêu thương con và tôn trọng nhau – Bớt đổ lỗi. Bớt mâu thuẫn . Ông bà – người thân được khai sáng để không đổ lỗi cho cha hoặc mẹ chúng, đặc biệt không áp đặt, trách mắng cháu . Gia đình trở nên cùng chiều, nhất quán, thấu hiểu trong vui vẻ, gắn kết hơn khi không phải tranh cãi, xung đột hàng ngày với các trái chiều của con

➡️ Không còn phải chạy chữa vô vọng – mà sống đúng, sống đủ: Thay vì chạy khắp nơi “học liệu trình trị liệu đắt tiền”, cả nhà dừng lại để sống chậm, quan sát và hiện diện bên con – Gia đình không còn là “nơi đầy áp lực”, mà trở thành “nơi an toàn nhất cho đứa trẻ khác biệt”.

2. HIỂU VỀ TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý (ADHD) & GÓC NHÌN CỦA PHỤ HUYNH VỀ LIỆU PHÁP TRỊ LIỆU CỦA CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN
(XEM THÊM)

HIỂU VỀ TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý (ADHD) & GÓC NHÌN CỦA PHỤ HUYNH VỀ LIỆU PHÁP TRỊ LIỆU CỦA CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN

Cách chẩn đoán – tư vấn – trị liệu trẻ bị tăng động giảm chú ý (ADHD) rất khác biệt so với cách tiếp cận thông thường của nhiều trung tâm, bác sĩ hay chuyên gia khác. Sự khác biệt đó không chỉ ở kỹ thuật, mà nằm ở tư duy trị liệu – góc nhìn phát triển – và khả năng kết nối sâu với tâm lý cốt lõi của trẻ và cha mẹ.

1. Chẩn đoán ADHD không chỉ dựa vào hành vi bên ngoài

➡️ Không nhìn biểu hiện bên ngoài của con trẻ là kết luận ngay con trẻ bị tăng động giảm chú ý: Trẻ nghịch ngợm, không tập trung, hay nói leo, nhảy nhót liên tục, không kiểm soát được cảm xúc… hoặc các biểu hiện mà cha mẹ thường đọc trên các kênh mạng xã hội

➡️ Luôn quan sát biểu hiện nhưng đi vào đào sâu ngóc ngách trong để phát hiện Con có thật sự không kiểm soát hành vi, hay là đang phản ứng với môi trường, cảm xúc bị kìm nén?. Con mất tập trung vì não không điều tiết được, hay vì môi trường giáo dục sai cách gây quá tải thần kinh?

➡️ Quan điểm của chuyên gia là Trẻ không tập trung không có nghĩa là trẻ có rối loạn chú ý. Có thể não con không nhận được thông điệp phù hợp để duy trì sự chú ý, hoặc con đang bất an nào đó

➡️ Vì vậy, chị không vội “gán nhãn ADHD” cho trẻ, mà đi theo hướng Phân tích tầng phát triển thần kinh – năng lực tính cách, tâm lý, cảm xúc – năng lực vận động – năng lực ngôn ngữ và giao tiếp – năng lực tương tác – năng lực học tập – năng lực học hỏi kỹ năng, khả năng tự phát triển…. để truy vết tìm nguồn gốc gốc rễ gây nên hành vi, cảm xúc mất kiểm soát

2. Trị liệu ADHD khác biệt và đạt hiệu quả cao trong ngăn chặn các biến chứng tiếp theo

✴️ Không dùng thuốc nếu chưa hiểu các nội tạng bất ổn tiềm ẩn bên trong – mà dùng phương pháp giáo dục phục hồi làm chủ điều hành não bộ.

➡️ Kích hoạt năng lực não bộ trong tư duy nhận thức đúng trong từng hành vi, cảm xúc
➡️ Khi con được khơi dậy quyền kiểm soát bản thân – não con tự làm chủ sự điều chỉnh mà không cần phục thuộc ai thúc nhắc

✴️ Không can thiệp kỹ thuật – mà chữa bằng kết nối cảm xúc

➡️ ADHD không đơn thuần là vấn đề “trẻ quá nhiều năng lượng” mà nhiều trẻ ADHD có tổn thương sâu về cảm xúc do không được công nhận, luôn bị mắng, hoặc thiếu kết nối cha mẹ.

➡️ Khơi lại cảm giác được công nhận của trẻ vì con trẻ này không cần bị kiểm soát thúc ép – mà cần được học cách kiểm soát chính mình

➡️ Đưa cha mẹ về trạng thái điều hòa – không giận dữ – không kiểm soát để cùng con tái kết nối trong môi trường yên lành, an toàn cảm xúc

✴️ Không nhìn đứa trẻ tách rời – mà xem cả hệ sinh thái gia đình là một thể

➡️ Bắt buộc làm việc để cả cả cha mẹ, ông bà, giáo viên đồng hành đúng cùng con vì một đứa trẻ mất kiểm soát trong một gia đình hỗn loạn – thì đó là triệu chứng chứ không phải bệnh. Trị liệu phải bắt đầu từ cha mẹ

➡️ Hồi phục lại kết nối cảm xúc trong gia đình để trẻ ADHD không còn bị lạc lõng từ việc chuyên gia hướng dẫn xây dựng lại môi trường giáo dục có tính điều hòa trong từng cách nói – cách đặt luật – cách truyền thông điệp không kích động

✴️ Lộ trình can thiệp cá nhân hóa – từng bước – không cào bằng

Chuyên gia Phạm Hiền không dùng một giáo án trị liệu cho tất cả trẻ ADHD. Mỗi đứa trẻ sẽ được trị liệu song song theo màu sắc hiện trạng hiện tại và các khuynh hướng có thể phát tác bất ổn hoặc các biến chứng khác có thể phát tác từ các vấn đề hiện tại

➡️ Phân tích gốc rễ -> Tìm điểm đứt kết nối, vùng não bị lạc điều hành

➡️ Ổn định nền tảng cảm xúc -> Đưa con về trạng thái an toàn, dễ tiếp nhận can thiệp

➡️ Tăng năng lực kiểm soát bản thân -> Tư duy nhận thức, kỹ năng và khả năng tự điều tiết, kỹ năng thiết lập kế hoạch thực hiện các hoạt động của bản thân

➡️ Đồng hành cùng gia đình -> Trị liệu cha mẹ – thống nhất chiến lược xử lý hành vi, cảm xúc, kỹ năng, khả năng…. và các hoạt động trong cuộc sống của con trẻ

➡️ Tái hội nhập học đường -> Hướng dẫn cha mẹ phương pháp để phối hợp cùng giáo viên điều chỉnh kỹ năng thích nghi lớp học

✴️ Sự khác biệt nổi bật nhất được các phụ huynh phản hồi

➡️ Tiêu chí Chẩn đoán: THÔNG THƯỜNG Dựa trên biểu hiện hành vi – CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN Dựa trên phân tích toàn diện cảm xúc – Môi trường – Não bộ

➡️ Tiêu chí Can thiệp/ Trị liệu: THÔNG THƯỜNG Dùng kỹ thuật hành vi hoặc dùng thuốc – CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN Can thiệp/ trị liệu não – Tâm – Cảm xúc đồng bộ

➡️ Tiêu chí Phụ huynh: THÔNG THƯỜNG Là người đứng ngoài quan sát – CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN hướng dẫn phụ huynh Là “bác sĩ, chuyên gia ” đầu tiên và quan trọng nhất

➡️ Tiêu chí Mục tiêu: THÔNG THƯỜNG Giảm tăng động – tăng chú ý hiện tại CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN Tái xây nền tự phát triển, giúp trẻ làm chủ bản thân trong hiện tại và các độ tuổi tiếp theo, đồng thời ngăn chặn được các rối loạn phát triển khác hoặc các biến chứng tâm lý khác.

➡️ Tiêu chí Cảm xúc trẻ: THÔNG THƯỜNG Có thể bị ép khuôn dập khuôn máy móc hành vi CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN Con được học cách bản thân tự dẫn dắt, điều hành chính mình bằng thấu cảm và kết nối thật sự

3. Tham khảo Lộ trình chi tiết khi can thiệp/trị liệu ADHD

✴️ Giai đoạn 1: Xác định đúng – Hiểu gốc rễ

➡️ Không dựa hoàn toàn vào biểu hiện bên ngoài như nghịch ngợm, mất tập trung

➡️ Phân tích hệ thống: não điều hành – cảm xúc – môi trường – tương tác cha mẹ

➡️ Sàng lọc kỹ: con bị tăng động thực sự hay chỉ bị rối loạn cảm xúc, mất cân bằng giáo dục

P/s: Đừng vội gắn mác ADHD khi chưa hiểu toàn diện. Đó không phải lỗi của con, mà là tiếng cầu cứu từ hệ thần kinh và cảm xúc đang quá tải.

✴️ Giai đoạn 2: Ổn định – Giảm xung đột – Điều hòa cảm xúc

➡️ Trị liệu không bắt đầu ở trẻ – mà bắt đầu từ thay đổi của cha mẹ, thầy cô, các mối quan hệ

➡️ Cha mẹ học điều chỉnh cảm xúc, ngôn ngữ, hành vi, môi trường

➡️ Hướng dẫn từng bước điều hòa cho trẻ qua rất nhiều các tình huống và hoạt động thực tế trong cuộc sống con cần

P/s: Con cần thuần thục, thành thạo làm chủ chuyển hóa năng lượng tăng động thành sáng tạo tích cực

✴️ Giai đoạn 3: Huấn luyện điều hành não – Dạy con làm chủ bản thân

➡️ Trẻ không học bằng lời nói mà học bằng hành động từ “ thực hiện – cảm nhận – luyện tập – phản hồi – duy trì – phát triển ”

➡️ Trị liệu chuyên sâu 10 trục phát triển cốt yếu: Tập trung ghi nhớ và logic – Tự nhận thức ứng dụng – Kiểm soát xung động – Linh hoạt nhận thức – Quản lý thời gian và nhiệm vụ chủ động – Lập kế hoạch và biết xử lý mục tiêu nhiệm vụ – Tư duy đón đầu, nhận diện vấn đề bất cập và kỹ năng giải quyết vấn đề – Kỹ năng và khả năng tương tác thể hiện bản thân – Tính các, tâm lý tích cực – Cảm nhận, cảm giác và bộc lộ được cảm xúc

P/s: Não trẻ là vùng đất màu mỡ. Vấn đề là người lớn gieo gì vào đó – áp lực hay cơ hội phục hồi.

✴️ Giai đoạn 4: Hòa nhập – Duy trì – Phát triển toàn diện

➡️ Củng cố qua thói quen sống, sinh hoạt, tương tác với trường học và xã hội

➡️ Dạy trẻ tự hiểu mình và tự làm chủ điều tiết khi bị mất kiểm soát

➡️ Cha mẹ duy trì kết nối và quan sát và không chủ quan để điểu chỉnh kịp thời các tái phát tác dù nhỏ nhất

P/s: Sửa hành vi không đủ. Hãy tái kết nối từ tâm hồn đến não – mới là trị liệu thật sự và nó phải được duy trì, phát triển theo từng độ tuổi cho con trẻ

Rất rõ ràng, sâu sắc và khác biệt so với nhiều cách nhìn phổ thông hiện nay. Đó là sự nhìn nhận ADHD từ gốc rễ – không chỉ là một “rối loạn hành vi” mà là một dạng tổn thương điều hành não – cảm xúc – năng lực tự phát triển của con trẻ – môi trường sống cần được hiểu đúng.

Với chuyên gia ADHD không phải một cái án như trẻ tự kỷ – mà là một lời gọi giúp con học lại cách sống có điều phối nhưng phải gấp rút và quyết đoán để không thành án thật. Đặc biệt can thiệp/trị liệu ADHD không bắt đầu từ trẻ một cách đơn lẻ mà phải là can thiệp. trị liệu toàn diện từ gốc để có cơ hội phục hồi nhanh và không phát tác các rối loạn khác, các biến chứng khác . Ngoài ra nó còn phải bắt đầu từ người lớn biết lắng nghe – chậm lại – điều hòa chính mình để đồng hành can thiệp/ trị liệu cho con và cho cả các sai lầm của chính mình. Nếu không đi đúng hướng thì con trẻ cũng sẽ phải dừng lại sự phát triển thông thường thậm chí là bất thường cao độ để ngăn chặn cả tương lai.

1. ADHD không phải là bệnh – mà là tiếng kêu cứu từ hệ thần kinh đang bị quá tải.

✴️ Chuyên gia không gọi ADHD đơn thuần là một rối loạn

➡️ Nó là hệ quả của sự đứt kết nối hoặc quá tải trong vùng não điều hành hành vi – tập trung chú ý – cảm xúc và nhiều các năng lực tự phát triển khác từ cơ bản đến cần phải được nâng cấp phù hợp theo vận hành tâm lý của từng độ tuổi trong các môi trường sống.

➡️ Một đứa trẻ nghịch, mất tập trung, hay nói leo, cư xử thất thường không có nghĩa là con hư hay bị bệnh mà có thể là não con đang quá tải vì không biết cách xử lý cảm xúc, không ai dạy con cách điều phối năng lượng.

➡️ ADHD không nên bị gắn mác vội vàng nếu chưa hiểu về môi trường sống, sự kết nối với cha mẹ, cách giáo dục, và cảm xúc sâu của trẻ bởi nhiều trẻ được chẩn đoán ADHD thật ra chỉ đang bị xung đột trong môi trường giáo dục, thiếu kết nối với cha mẹ hoặc đang bị đè nén cảm xúc, đè nén nội tâm vô thức.

✴️ ADHD là rối loạn điều hành – nhưng có thể phục hồi nếu can thiệp, trị liệu đúng, đủ và kịp thời

➡️ Tâm điểm quan trọng và là gốc để trị liệu thành công là trị liệu năng lực điều hành Não của trẻ nên nó phải được trị liệu từng ngóc ngách mọi vấn đề, mọi nguyên nhân trong cái gốc đó

➡️ Chuyên gia tin rằng Não của trẻ có khả năng phục hồi điều hành, nếu được dẫn dắt bằng phương pháp đúng. Không ép, không vội khi dùng thuốc làm tắt triệu chứng. Và đặc biệt là không đổ lỗi cho trẻ bởi Trẻ không kiểm soát được mình thì người lớn phải là người kiểm soát môi trường, truyền dẫn sự điều hòa và dạy cách làm chủ lại bản thân từng bước nhỏ.

✴️ ADHD không chỉ ở trẻ – mà còn nằm ở chính người lớn chưa hiểu trẻ, gia đình chưa có nền tảng gắn kết đúng cho con trẻ

➡️ Thiếu nhận thức đúng về vấn đề của con: Phần lớn cha mẹ không nhận ra cái gốc và các nguyên nhân gốc dễ rằng Tư duy nhận thức, tính cách, tâm lý, kỹ năng, khả năng… của con có vấn đề

➡️ Chỉ biết phản ứng với con trẻ: Cả cha mẹ và người lớn thường phản ứng cảm xúc quá mức với con hoặc áp đặt trẻ phải ngồi yên, học ngoan, cư xử đúng chuẩn của người lớn mong muốn nhưng không hiểu rằng bộ não của trẻ tăng động chưa hoàn thiện khả năng kiểm soát đó

➡️ Thiếu thấu hiểu và thấu cảm con trẻ: Con Trẻ không thể học được điều tiết, kiểm soát nếu cha mẹ, người lớn không học cách điều tiết, kiểm soát được chính mình đúng trong tương tác với con

➡️ ADHD là lời mời cả nhà phải học lại cách kết nối và giáo dục: Bởi nó không chỉ xảy ra ở trẻ, mà còn là triệu chứng mất cân bằng của cả gia đình. Phải xây lại tổ ấm điều hòa – để não trẻ được “hạ nhiệt”. Phải dạy con kỹ năng điều phối – chứ không chỉ yêu cầu “kiềm chế”

➡️ Cha mẹ, giáo viên phải biết đồng hành đúng với con trẻ: Mỗi hành vi mất kiểm soát là một tín hiệu con trẻ cần được giúp đỡ để nhận thức đúng mà tự sửa lỗi chứ không phải cứ bắt chúng phải nhận lỗi, phải sửa lỗi như con rô bốt từ sự điều khiển của cha mẹ, người lớn

✴️ Trẻ ADHD không cần người sửa chữa dập khuôn, máy móc mà cần người dẫn đường đúng để con có khả năng tự đi

➡️ ADHD Nó là một cá tính chưa được kiểm soát, chứ không phải một đứa trẻ hư

➡️ Con trẻ cần nghiêm khắc nhưng phải được công nhận, được hướng dẫn cách làm chủ bản thân tỉ mỉ với từng vấn đề, được cha mẹ khích lệ dán nhãn niềm tin thay đổi thay vì la mắng

➡️ Con không cần là trẻ hoàn hảo con chỉ cần trở thành một đứa trẻ biết kiên nhẫn để từng bước điều phối được chính mình.

2. Tóm tắt quan điểm của chuyên gia Phạm Hiền về ADHD

➡️ ADHD là gì: Phần lớn là có thể do Tổn thương điều hành cảm xúc – hành vi – chú ý do não quá tải – các kỹ năng, khả năng thiếu thốn

➡️ Vì sao xảy ra: Do môi trường sống, giáo dục sai cách, thiếu kết nối cảm xúc, do chính con không có năng lực tự phát triển đúng về nhận thức, cảm xúc, hành vi trong các tương tác

➡️ Có chữa được không: Có chữa được nếu được can thiệp, trị liệu đúng và kịp thời trong giai đoạn vàng từ bên trong chứ không phải chỉ là biểu hiện bên ngoài. Không vội dùng thuốc nếu chưa thực sự biết các vấn đề sâu trong nội tạng phát triển của con trẻ.

➡️ Ai phải thay đổi đầu tiên: Cha mẹ , thầy cô cần thay đổi trước để có môi trường sống, học tập trở thành nền trị liệu

➡️ Trẻ cần gì nhất: Tư duy nhận thức đúng và đủ tốt để tự điều hòa cảm xúc – có khả năng kết nối bền vững – con tự dẫn dắt đúng phương pháp cho chính mình

➡️ Can thiệp / Trị liệu ra sao: Huấn luyện não – cảm xúc – hành vi – kỹ năng và khả năng qua lộ trình phục hồi cá nhân hóa với từng màu sắc của con trẻ

3. Phản hồi từ phụ huynh về quan điểm của chuyên gia sau khi Test chẩn đoán và tư vấn

➡️ Tôi nghĩ test và tư vấn chuyên gia chỉ là trắc nghiệm, ai ngờ đó là buổi khai sáng

➡️ Rất khác là chuyên gia Không đánh giá con như một đối tượng bệnh lý, mà nhìn trẻ như một hệ sinh thái đang bị tổn thương.

➡️ Bác ấy không dùng bảng câu hỏi máy móc, bảng đánh giá biểu hiện máy móc – mà quan sát sâu, trò chuyện, phân tích từng điểm kết nối từ não – hành vi – cảm xúc – kỹ năng – khả năng trong từng môi trường mà con tiếp cận

➡️ Tôi đã vỡ òa cảm xúc vì lần đầu được ai đó lắng nghe nỗi đau của chính minh và con trong hành trình nuôi dạy con.

➡️ Lộ trình không dễ – nhưng rất thật. Không áp lực chạy theo mục tiêu, mà tập trung chữa lành cả nhà. Và tôi nhận ra: khi tôi bình tĩnh, con tôi cũng bình tĩnh.

➡️ Tôi tưởng con cần trị liệu, hóa ra chính tôi cần trị liệu trước.

➡️ Bác Phạm Hiền chỉ nói vài câu, mà như tháo gỡ nút thắt trong tim tôi suốt 6 năm.

➡️ Tôi đã tưởng chỉ cần phải sửa con, ai ngờ tôi được cho thấy phải sửa chính mình trước.

➡️ Tôi đã được học cách lắng nghe con bằng ánh mắt, chứ không phải mệnh lệnh.

➡️ Tôi đưa con đến test ADHD. Nhưng điều tôi đem về là bài học làm cha mẹ – bài học chữa lành chính mình.

➡️ Bác Phạm Hiền không cho tôi phác đồ trị liệu ngay – Bác cho tôi một chiếc gương để soi lại chính mình trước đã. Nếu tôi soi được và chấp nhận nhìn nó bằng sự không tô vẽ, không trang điểm thì tôi và ocn mới được nhận. Rất khốc liệt và tôi đã rất sốc nhưng vẫn lựa chọn theo chị ấy và đó là điều đúng đắn nhất trong các quyết định từ trước đến giờ của tôi khi đi trị liệu cho con.

4. Phản hồi từ phụ huynh về quan điểm của chuyên gia trong và sau Can thiệp/Trị liệu cho con

➡️ Không một buổi nào chị Hiền chữa ADHD như chữa bệnh. Bác ấy giúp tôi và chồng ngồi lại, lắng nghe nhau, học cách ôm con hoặc nghiêm khắc đúng lúc. Và kỳ lạ là từ đó con bớt la hét.

➡️ Lộ trình không dễ – nhưng rất thật. Không áp lực chạy theo mục tiêu, mà tập trung chữa lành cả nhà. Và tôi nhận ra: khi tôi bình tĩnh, con tôi cũng bình tĩnh.

➡️ Sau 3 tháng, con tôi biết ngồi học nghiêm túc, không còn khóc, không đánh bạn, có bạn bời. Lúc đó Tôi biết: não con đang trưởng thành dần

➡️ Gặp chuyên gia tôi mới hiểu đừng cứ phải tìm hoặc mong sự huyễn hoặc sự vuốt ve hoặc sự thần kỳ – mà hãy cần sự thật và làm thật một cách quyết liệt

➡️ Tôi đã thấy kết quả rõ nét dần trong hành trình trị liệu bắt đầu từ tháng thứ nhất đến tháng thứ 3:

➡️ TRƯỚC TRỊ LIỆU con tôi la hét, khó ngủ NÓ ĐÃ Ngủ sâu hơn, có thể ngồi hợp tác lâu hơn trong các giờ tự học và trong các hoạt động

➡️ TRƯỚC TRỊ LIỆU Không kiểm soát được hành vi nên trêu trọc, đánh bạn, gây phiền mọi lúc mọi nơi NÓ ĐÃ Bắt đầu biết xin lỗi, biết kìm chế để cưỡng lại sự trêu và đánh bạn

➡️ TRƯỚC TRỊ LIỆU Mất tập trung hoàn toàn, không chép bài NÓ ĐÃ Biết lắng nghe từng chút, chép bài đầy đủ

➡️ TRƯỚC TRỊ LIỆU Cha mẹ căng thẳng, đổ lỗi nhau CHÚNG TÔI ĐÃ Biết cùng nhau ngồi lại – cùng dạy con bằng yêu thương

➡️ Tôi hiểu thứ mà chúng tôi mong muốn chưa phải là mong con hết ADHD – chúng tôi chỉ mong con hạnh phúc. Và điều đó bắt đầu xảy ra tích cực để là nền cho chữa lành ADHD

➡️ Tôi không cần trung tâm 5 sao, tôi cần một chuyên gia nhìn con tôi như một con người – và bác Phạm Hiền làm được điều đó

➡️ Bác chuyên gia Phạm Hiền không cho tôi thuốc – bác ấy cho tôi một hành trình. Không dễ dang – Nhưng đã đúng khi tôi vào cuộc đống hành cùng con tỉ mỉ theo chỉ dẫn từng chút một của bác ấy.

➡️ Sau 3 tháng, con tôi không còn là ‘đứa trẻ tăng động’ – mà là một đứa trẻ biết yêu, biết ôm, biết nói những câu cảm xúc thật lòng

5. Một vài kết quả chi tiết được phải hồi sau quá trình trị liệu

✴️ Tập trung tốt hơn – Giảm hành vi bốc đồng

➡️ Con có thể ngồi yên trong các hoạt động hàng ngày theo độ tuổi mà không cần nhắc hay áp sát

➡️ Bắt đầu biết hoàn thành nhiệm vụ từ đầu đến cuối

➡️ Không còn phản ứng kiểu “nổ tung” khi bị nhắc nhở, bị phê bình hoặc bị thúc ép

P/s: Con tôi đã biết dừng lại trước khi nói toáng lên hay lao vào vật gì đó. Con biết thở – biết đếm – biết xin phép.”

✴️ Kiểm soát cảm xúc, tinh cách – Giảm đòi hỏi, ăn vạ, cáu gắt

➡️ Con biết đúng sai nên không đòi hỏi trong la hét

➡️ Con biết nhận ra cảm xúc của mình và biết gọi tên nó nên kiểm soát được các cơn tức giận và bộc lộ được cảm xúc yêu thương, ôn hòa tích cực

➡️ Con đã biết tự điều chỉnh mất kiểm soát bản thân bằng nhận thức, điều hòa cảm xúc, điều hòa hơi thở, di chuyển, hoặc nhờ giúp đỡ khi quá tải chịu đựng

➡️ Con biết đưa chính kiến quan điểm và thuyết phục thay bằng chỉ biết la hét hay đập phá

➡️ Tôi nghe con nói tron lúc nó tức giận rằng ‘Mẹ ơi, con cần ôm’ – và tôi đã khóc. Vì trước đây con sẽ chỉ hét và lao vào đánh người khác hoặc làm đau nó

✴️ Cải thiện quan hệ xã hội – Biết chơi cùng, không xâm phạm người khác

➡️ Con bắt đầu có bạn, không còn bị gọi là “nghịch ngợm”, “quá khích”

➡️ Con Biết chờ lượt, chia sẻ, không chen ngang, không gây gổ

➡️ Con Biết xin lỗi – biết sửa sai – biết cảm ơn

➡️ Cô giáo bảo con tôi giờ đã biết xếp hàng và vỗ tay cổ vũ bạn, không chạy loạn lên nữa

➡️ Cô giáo con bảo bây giờ con được làm lớp trưởng và làm gương nề nếp trong lớp cho các bạn cũng quậy nghịch giống con trước kia

✴️ Phát triển tư duy điều hành

➡️ Tư duy nhận thức được vấn đề nên không nên, đúng sai rõ nét nên không bị phản ứng dập khuôn cố thủ theo ý mình

➡️ Biết tự lên kế hoạch đơn giản cho một buổi chơi hoặc học

➡️ Biết nhớ quy trình làm các nhiệm vụ và làm theo kế hoạch mà không bị phân tâm

➡️ Có khả năng xử lý tình huống linh hoạt hơn (nếu bị đổi kế hoạch) bằng tư duy và giao tiếp

✴️ Cha mẹ giảm căng thẳng – học cách kết nối đúng

➡️ Cha mẹ không còn đánh con – quát mắng – phạt con vô lý

➡️ Biết xử lý tình huống bằng quản lý cảm xúc và giao tiếp hiệu quả

➡️ Biết quan sát con, không hoảng loạn khi con bộc phát

➡️ Tôi từng đập bàn hét lớn mỗi lần con phạm lỗi và bây giờ tôi có thể chờ đợi để tìm kiếm sự thích hợp nhất nói chuyện để dạy lại con

➡️ Tôi và chồng Không còn cãi nhau vì bất đồng dạy con, biết chia sẻ vai trò, cùng nhau học trị liệu, tôn trọng và hỗ trợ nhau trong hành trình thay đổi

➡️ Tôi và chồng từng đổ lỗi cho nhau vì con có vấn đề. Giờ chúng tôi cùng học, cùng tập, và cùng khóc khi thấy con tiến bộ.

➡️ Gia đình sống chậm hơn – hiểu nhau hơn và Có thời gian cho con, không chạy theo so sánh, kỳ vọng

➡️ Gia đình tôi an nhiên hơn khi đã thấu hiểu rằng ADHD không phải “bản án” mà là “chuyến tàu đặc biệt” trong đó cùng nhau sống có mặt, kết nối sâu, chữa lành dần dần

➡️ Tôi và gia đình đã nhẹ nhõm khi thay đổi được quan điểm: Chúng tôi không còn cần con phải trở thành đứa trẻ ‘ngoan’ mà chỉ cần con được là chính mình – khỏe mạnh, an toàn, và được yêu thương.”

➡️ Gia đình Tôi cảm thấy an yên khi loại bỏ mong con hết tăng động. vì bây giờ chúng tôi mong con hạnh phúc – và tôi biết điêu tôi cần đang đang đến dần theo hành trình trị liệu của con

➡️ Chúng Tôi từng nghĩ trị liệu là kỹ thuật. Giờ tôi biết đó là hành trình yêu thương có định hướng và mục đích rõ ràng theo quy luật con người tham gia vào môi trường sống nên thấy có niềm tin trở lại

➡️ Chúng tôi được chữa lành bởi sự không nóng vội vì hiểu rằng cần chia ra các giai đoạn mong muốn: Ngắn hạn (2–4 tuần) chỉ cần Con ổn định hơn, ngủ ngon, cha mẹ giảm la mắng – Trung hạn (1–3 tháng) Chỉ cần con biết điều chỉnh hành vi – cảm xúc, gia đình phối hợp tốt – Dài hạn (6 tháng – 1 năm) chỉ cần con chủ động điều hành bản thân, cha mẹ đồng hành lành mạnh, gia đình chữa lành thực sự và sau đó ADHD của con sẽ biến mất mà không để lại biến chứng đáng tiếc nào.

➡️ Việc trị liệu đúng cách và kịp thời cho trẻ bị Tăng động giảm chú ý (ADHD) không chỉ giúp trẻ ổn định hiện tại, mà còn ngăn chặn sớm các biến chứng nghiêm trọng có thể xảy ra về sau.

➡️ Đây là một trong những lý do chuyên gia luôn nhấn mạnh khốc liệt thậm chí dùng ngôn từ sốc cảnh bào đến cha mẹ rằng ADHD không được phép chủ quan, và không nên chỉ “kiểm soát tạm thời bằng thuốc” hoặc ” kiểm soát tạm thời bằng hành vi, cảm xúc đơn lẻ” rồi phó mặc cho tương lai.

➡️ Bới vì nếu phát tác ADHD mà không chữa thì chắc chắn con trẻ sẽ mắc một trong ác biến chứng rôi loạn tâm thần, các biến chứng tâm lý và rất nhiều các bất ổm gây thâm hụt nghiêm trọng năng lực tự phát triển bản thân tron học tập và trong tất cả các vấn đề khác con người cần có của con trẻ trong các độ tuổi tiếp theo.

1. Các biến chứng phát triển và biến chứng tâm thần của ADHD

=> Bốc đồng – rối loạn cảm xúc, hành vi -> Dễ trở nên hung hăng, phá phách, bị đuổi học

=> Rối loạn học tập -> Không tiếp thu được, mất tự tin, bỏ học sớm

=> Trầm cảm – lo âu – tâm thần phân liệt -> Tự ti, rút lui, hoặc phá phách, đánh người hoặc thậm chí có nguy cơ tự làm tổn thương bản thân

=> Kháng trị – chống đối xã hội -> Không tuân thủ luật lệ, chống đối và mất kiểm soát mọi lúc mọi nơi, dễ sa vào hành vi lệch chuẩn không phân biệt nguy hiểm

=> Lạm dụng chất kích thích -> Tăng nguy cơ sử dụng chất gây nghiện tuổi vị thành niên

=> Mất khả năng tự lập -> Không giữ được việc, dễ lệ thuộc khi trưởng thành

=> Rạn vỡ gia đình -> Bố mẹ kiệt sức – ly hôn – mất kiểm soát hành vi nuôi con

2. Chuyên gia khuyến cáo Con trẻ ADHD phải được trị liệu đúng, đủ, kịp thời

✴️ Không chữa “triệu chứng ”, mà chữa “gốc rễ” trogn từng ngóc ngách vấn đề của và khuynh hướng vấn đề trong tương lai

=> ADHD không chỉ là hành vi chạy nhảy, mà là sự rối loạn từ điều hành não bộ, cảm xúc, môi trường nuôi dưỡng.

=> Cuyên gia không vội ép con ngồi yên, mà tìm cách đưa con về trạng thái an toàn thần kinh, giúp não tự điều chỉnh.

P/s: Con trẻ phải được đưa về trạng thái ổn định nền thần kinh, rồi mới dạy kỹ năng kiểm soát vì dạy sớm khi não chưa sẵn sàng là phản tác dụng

✴️ Trị liệu cả hệ sinh thái: Trẻ – Cha mẹ – Trung tâm – Nhà trường

=> Hướng dẫn cha mẹ trở thành “người trị liệu thứ nhất ” trong cuộc sống hàng ngày.

=> Kết hợp cả nhà trường, thầy cô để môi trường không gây xung đột.

P/s: Con trẻ không bệnh – con chỉ chưa có môi trường và người đủ hiểu để con phát triển đúng cách nhưng cha mẹ phải là người có kỹ thuật dẫn dắt và dạy con cách dẫn dắt từng môi trường con ra nhập

✴️ Can thiệp/ Trị liệu sớm – Tái huấn luyện não bộ

=> Con học cách tư duy nhận thức mới và hình thành thói quen mới để xây dựng con đường tư duy thay thế cho phản ứng bản năng cũ

=> Trị liệu huấn luyện đủ lặp lại liên tục các xử lý, giải quyết vấn đề trong các tình huống để có phản ứng thay thế tiêu cực sang phản xạ điều tiết lành mạnh

✴️ Không dùng thuốc để “ép yên”, mà dạy con “tự yên”

=> Sai lầm của rất nhiều phụ huynh chọn dùng thuốc để trẻ ngồi yên mà không trị liệu tâm lý nên dễ dẫn đến phụ thuộc, mất khả năng tự kiểm soát.

=> Chuyên gia không bác bỏ y học, nhưng luôn ưu tiên trị liệu tư duy nhận thức, hành vi, cảm xúc và thần kinh chức năng trước sau đó nếu là các bất ổn mất kiểm soát mới tư vấn gia đình sử dụng thuốc từ các bác sỹ chuyên nghành lâm sàng.

✴️ Cha mẹ cần hiểu đúng về đích đến ngăn chặn các biến chứng

=> Rối loạn hành vi -> ĐÍCH ĐẾN Trẻ biết tự kiểm soát, giảm xung đột

=> Bỏ học, mất định hướng -> ĐÍCH ĐẾN Tái học tập qua kỹ năng điều hành não bộ

=> Trầm cảm tuổi teen -> ĐÍCH ĐẾN Trẻ được kết nối – hiểu – yêu thương sớm

=> Tự làm tổn thương bản thân -> ĐÍCH ĐẾN Biết giải tỏa cảm xúc đúng cách, không tiêu cực hóa bản thân

=> Lệ thuộc vào người lớn -> ĐÍCH ĐẾN Được dạy tự lập từ nền tảng an toàn cảm xúc

=> Hành vi sai lệch xã hội -> ĐÍCH ĐẾN Trẻ hiểu giới hạn – biết đúng sai qua hành vi nội lực, không bị áp đặt

P/s: Theo chuyên gia Phạm Hiền, ADHD không nguy hiểm nếu được phát hiện và trị liệu đúng lúc, đúng cách. Nhưng nếu chậm trễ, trị sai hướng hoặc bỏ mặc, hậu quả rất khó lường. Bởi các biến chứng của ADHD là các chứng rối loạn tâm thần.

1. Hành vi chuyển biến rõ rệt:

=> Không ngồi yên quá 1 phút -> Có thể ngồi tập trung 10–20 phút tùy độ tuổi

=> Dễ cáu, khó kiểm soát cảm xúc -> Biết nói: “Con đang bực, cho con yên” thay vì quậy phá

=> Tự ti, né tránh bạn bè -> Biết chủ động chơi, không bị bắt nạt

=> Nói dối – chống đối -> Biết nhận lỗi, biết chia sẻ thật lòng

=> Khó học – không theo kịp lớp -> Tăng khả năng ghi nhớ, lắng nghe, và tiếp nhận kiến thức

P/s: Con tôi trước đây không ai dạy nổi. Sau 3 tháng, con biết nói: ‘Mẹ ơi, con sai rồi.’ Tôi vừa vui vừa khóc.”

2. Cha mẹ thay đổi hoàn toàn cách nhìn và cách nuôi con:

=> Cảm thấy bất lực, mệt mỏi, hay quát mắng con -> Biết lùi lại, lắng nghe, hỗ trợ con đúng thời điểm

=> Mong con “bình thường như những đứa trẻ khác” -> Chấp nhận con là duy nhất – và đặc biệt theo cách riêng

=> Chỉ muốn “sửa con cho nhanh yên” -> Sẵn sàng đồng hành lâu dài, từng bước chậm nhưng vững

=> Hay đổ lỗi nhau (bố trách mẹ, mẹ oán bố) -> Biết chia sẻ trách nhiệm, cùng nhau chữa lành làm cha mẹ

P/s: Chuyên gia không dạy tôi cách dạy con. Bác ấy dạy tôi cách trở thành một người mẹ mà con tôi có thể tin tưởng rằng tôi đang đi đúng hướng cho con. Rất nhiều cha mẹ nói với tôi rằng, lần đầu tiên họ cảm thấy có người thực sự hiểu họ – hiểu con họ, và họ không còn đơn độc.

3. Gia đình học được cách chữa lành cùng nhau

=> Không còn những buổi tối chỉ có tiếng la hét, đòn roi → thay bằng giờ kể chuyện, chơi cùng con, học cùng con.

=> Ông bà – bố mẹ – thầy cô cùng chung “ngôn ngữ yêu thương” khi giao tiếp với trẻ.

=> Con không còn là gánh nặng – mà là trung tâm của hành trình thay đổi tích cực trong gia đình.

P/s: Bác chuyên gia không hứa sẽ chữa hết ADHD – nhưng chị cho tôi đủ niềm tin để không bỏ cuộc.. Chúng tôi từng muốn gửi con vào trường nội trú. Sau khi học cách nhìn con đúng cách, chúng tôi ước giá như được làm lại từ đầu sớm hơn.”.

Câu chuyện của một đứa trẻ chuyên chống đối và gây rối bị kỳ thị ở trường lớp, khi đến với chuyên gia Phạm Hiền, thường bắt đầu bằng nỗi đau rất âm thầm và không ai hiểu được. Nhưng điều khác biệt là: chuyên gia không “trị” hành vi, mà đi sâu để gỡ rối từ bên trong đứa trẻ, từ tâm lý của cha mẹ, và từ định kiến của môi trường.

1. Bức tranh ban đầu – khi phụ huynh đưa con đến

=> La hét, phá phách trong lớp
=> Chống lại thầy cô, từ chối mọi quy tắc
=> Hay bị đuổi học tạm thời, hoặc chuyển lớp.
=> Cha mẹ thường xuyên được mời lên trường vì “con gây rối”.
=> Đứa trẻ dần bị cô lập – gắn mác “trẻ không bình thường”.

P/s: Cha mẹ chia sẻ Mỗi ngày đến lớp là một cuộc chiến. Không ai muốn chơi với con. Cô giáo khuyên tôi nên gửi con đi nơi khác.

2. Giai đoạn chẩn đoán – “Gọi đúng tên nỗi đau”

=> Con chống đối không phải vì hỗn – mà vì bị tổn thương hoặc thiếu an toàn cảm xúc.

=> Gây rối không phải để phá hoại – mà để được nhìn thấy, được công nhận.

=> Con có thể bị rối loạn điều hoà cảm xúc, tăng động thể ẩn, sang chấn tiềm ẩn hoặc bị ép học sai nhịp phát triển.

P/s: Tôi ngạc nhiên vì chuyên gia không chữa cái mà con tôi đang chống đối. Bác lặng lẽ và nhẫn nại nhưng quyết đoán, quyết liệt chữa nỗi cô đơn của con để con bật ra được các thổn thức mà nó giấu tận cùng bên trong.

3. Giai đoạn trị liệu – “Không áp kỷ luật mà dạy con tự biết kỷ luật để con tự chữa lành”

✴️ Trị liệu và chữa lành cho con

=> Gỡ khóa cảm xúc tiêu cực (giận dữ, tủi thân, mặc cảm) và bộc lộ được cảm xúc thật, cảm xúc tích cực

=> Xây lại lòng tin với người lớn (thường là giáo viên, cha mẹ).

=> Phát triển tư duy suy luận vấn đề để nhận thức đúng, kỹ năng diễn đạt nhu cầu thay vì la hét.

=> Học cách tự điều chỉnh cảm xúc và hành vi thông qua mô hình “Con làm chủ kiểm soát trong an toàn”.

✴️ Trị liệu và chữa lành cho cha mẹ

=> Thay đổi cách phản ứng: từ trừng phạt sang hướng dẫn.

=> Học lại ngôn ngữ giao tiếp phù hợp với não bộ của trẻ khó.

=> Thoát khỏi cảm giác tội lỗi, bất lực để trở thành người bạn đồng hành đúng nghĩa.

✴️ Can thiệp môi trường (trường lớp nếu cần):

=> Dạy con Viết thư chia sẻ với giáo viên – hướng dẫn nhà trường hiểu đúng về con.

=> Tổ chức hoạt động tương tác nhóm nhỏ với bạn bè nếu con bị loại trừ khỏi các mối quan hệ bạn bè

=> Đồng hành cùng giáo viên trong việc phân biệt hành vi – cảm xúc – và nhu cầu thực sự của con để dán nhãn niềm tin thay đổi cho con

4. Những thay đổi sau 3 – 6 tháng

=> Bị đuổi ra khỏi lớp mỗi ngày -> Được mời làm “trưởng nhóm chia sẻ cảm xúc”

=> Thường xuyên đánh bạn, hất bàn -> Biết xin lỗi, biết nhờ cô giúp khi tức giận

=> Bố mẹ mệt mỏi, kiệt sức -> Biết dạy con , cười cùng con, không còn ép con vô thức

=> Không ai tin con có thể thay đổi -> Giáo viên nói: “Tôi đã hiểu nhầm em rồi.”

P/s: Tôi từng nghĩ con tôi là thảm họa. Giờ tôi nghĩ con là món quà… chỉ là tôi mở sai cách.

5. Một vài lời chia sẻ thực tế từ phụ huynh đã đồng hành:

=> Chị Hiền nói: chống đối là một dạng kêu cứu. Tôi đã điếc với tiếng kêu đó suốt 5 năm.

=> Tôi từng mất con, dù nó vẫn sống trong nhà tôi. Nhờ bác chuyên gia tôi gọi được con trở về.

=> Chuyên gia nói với tôi rằng Không phải con thay đổi – mà cả nhà tôi đã học cách thở cùng nhau, sống cùng nhau, và yêu nhau đúng cách.

Theo chuyên gia trị liệu Phạm Hiền, một trong những lỗi sai nguy hiểm nhất của phụ huynh và cả một số cơ sở can thiệp là: chẩn đoán nhầm hoặc can thiệp sai hướng khiến trẻ tăng động giảm chú ý (ADHD) không những không cải thiện mà còn phát sinh biến chứng nặng hơn.

1. Tăng hành vi chống đối, bướng bỉnh hơn trước

=> Sau can thiệp, trẻ khó kiểm soát hơn, gắt gỏng, nổi loạn, cãi lại trong thời gian dài từ 2 đến 3 tháng mà không tiến triển

=> Có thể Lý do: Bị ép học, trị liệu kiểu chỉ dùng “kỷ luật cứng ” mà không trị liệu giải quyết gốc của tư duy và cảm xúc.

2. Tăng động nặng hơn hoặc “lì đơ”

=> Trước kia trẻ chỉ hơi nghịch, giờ không kiểm soát được hành vi.

=> Ngược lại, có trẻ bị ép can thiệp khiến trở nên trầm hơn, mất động lực, “đơ cảm xúc”.

3. Suy giảm khả năng tập trung nghiêm trọng hơn

=> Tư duy nhận thức không phát triển lên

=> Không còn hứng thú học tập.

=> Lo âu khi phải ngồi lâu.

=> Sợ sai và né tránh bài tập

4. Biểu hiện cảm xúc rối loạn: dễ khóc, la hét, tự tổn thương

=> Có trẻ bắt đầu đập đầu, cấu tay, tự làm đau, hoặc đòi chết.

=> Phản ánh sự chấn thương tâm lý do bị ép trị liệu sai cách, không phù hợp tâm lý tuổi nhỏ.

5. Không kết nối với cha mẹ, từ chối hợp tác

=> Trẻ không còn tin tưởng người lớn.

=> Dễ đóng cửa cảm xúc, “điều gì cũng nói không”, phản ứng cực đoan khi bị gọi học.

6. Không phát triển các kỹ năng xã hội, kỹ năng tự phục vụ

=> Chỉ tập trung dạy con “giỏi” hơn mà bỏ qua:

=> Giao tiếp và cư xử

=> Tự điều chỉnh hành vi.

=> Giao tiếp cảm xúc và sống độc lập.

=> Kết nối và gắn kết

=> Tự tin đón đầu và Giải quyết vấn đề

=> Khả năng tự thể hiện bản thân

7. Can thiệp kéo dài mà không có tiến bộ rõ rệt

=> Trị liệu nhiều tháng nhưng:

=> Chưa ngồi học được lâu hơn.

=> Không tự kiểm soát được cảm xúc.

=> Tư duy và Kỹ năng xã hội vẫn bằng 0.

8. Sử dụng thuốc như sự cứu cánh

=> Chỉ sử dụng thuốc mà không trị liệu tâm lý kết hợp

=> Dùng thuốc vì nỗi sợ dừng thuốc hết năm này sang năm khác khi con không tốt hơn

P/s: Không phải cứ tăng động là cần thuốc, không phải cứ nghịch là bị bệnh. Phải hiểu rõ não, cảm xúc, môi trường và lịch sử phát triển của trẻ trước khi ra bất kỳ kết luận nào.

9. Sai lầm trong chẩn đoán và gốc rễ vấn đề gây hậu quả

-> Chỉ Chỉ can thiệp hành vi – không trị liệu tư duy, cảm xúc -> Trẻ càng phản kháng

-> Chỉ ép học tập – bỏ qua trị liệu vận động, não bộ -> Trẻ không tiếp thu, dễ kiệt sức

-> Không đánh giá đồng thời các rối loạn đi kèm (rối loạn cảm giác, lo âu, trầm cảm nhẹ…) -> Can thiệp bị lệch hướng, không hiệu quả

-> Đưa đến trung tâm không đủ chuyên môn hoặc thiếu hệ thống -> Trẻ bị thử – sai liên tục, mất niềm tin

10. Sai lầm trong nuôi dạy con tăng động giảm chú ý

=> Cho rằng con chỉ “hiếu động hơn bình thường: Từ đó Sai khi Tưởng nhầm trẻ ADHD chỉ là nghịch, thông minh lanh lợi → TDo vậy chậm phát hiện và can thiệp, trị liệu mất giai đoạn vàng

=> Trì hoãn chẩn đoán vì sợ con bị “gán mác bệnh: Từ đó Sai vì Càng chờ, thời gian vàng phát triển não bộ càng mất đi → Do vậy Tăng nguy cơ rối loạn cảm xúc, học tập, tâm lý nặng nề sau này.

=> Chỉ đưa con đến bác sĩ để uống thuốc mà không trị liệu hành vi: Từ đó Sai vì Thuốc chỉ là hỗ trợ, không chữa gốc vì nếu không can thiệp, trị liệu từ Tư duy – kỹ về hành vi – cảm xúc – kỹ năng khả năng khác….trẻ vẫn chống đối, mất kiểm soát thậm chí theo từng độ tuổi sẽ nặng hơn.

=> Dạy con theo cách bình thường như trẻ khác: Từ đó Sai vì con Trẻ ADHD cần phương pháp dạy chuyên biệt → Dạy sai cách tạo ra xung đột, chống đối, cảm xúc tiêu cực.

=> Quát mắng, dọa nạt để con “im đi” hoặc “tập trung lại”: Từ đó Sai vì ADHD là tổn thương thần kinh, không phải cố tình. -> DO vậy Quát mắng khiến trẻ rối loạn lo âu, rút lui hoặc hung tính cao hơn

=> Kỳ vọng quá cao rồi thất vọng nặng nề: Từ đó Sai vì So sánh con với bạn bè gây áp lực, làm con mất động lực và tự ti sâu sắc nên sẽ càng dễ bộc phát mạnh sự bất lực với hành vi, cảm xúc chống đối, bất hợp tác cao hơn

=> Luôn đổ lỗi cho con mà không sửa mình: Từ đó Sai vì Cha mẹ cần học lại cách thấu hiểu con, cách giao tiếp, cách thiết lập ranh giới và hỗ trợ cảm xúc cho trẻ ADHD – nếu không, cả nhà cùng rối loạn.

=> Phụ thuộc vào cô giáo hoặc trung tâm không đúng nên không phối hợp tại nhà : Từ đó Sai vì con trẻ ADHD là bài toán 3 nơi: ở nhà – ở lớp – trung tâm cùng phải giải cùng con

=> Trị liệu hời hợt, thiếu kiên trì: Tư đó sai Sai vì nhiều cha mẹ chỉ cố vài tuần rồi bỏ, hoặc không bám sát hướng dẫn chuyên gia → Không có kết quả → nản → bỏ cuộc và đổ lỗi cho con rằng nó đã hết thuốc chữa hoặc đổ lỗi rằng chẳng có nơi nào có thể giúp con.

=> Lơ là kiểm soát thời gian màn hình, game, thiết bị điện tử: Từ đó Sai vì ADHD + game = cú đúp phá hủy sự tập trung và cảm xúc. Trẻ càng nghiện, càng khó kiểm soát hành vi, cảm xúc, nhận thức đúng

=> Bỏ qua trị liệu cảm xúc và chữa lành gia đình mà chỉ tập trung vào chữa con: Từ đó Sai vì ADHD không chỉ ảnh hưởng trẻ mà còn rạn nứt mối quan hệ cha mẹ – con cái, cần trị liệu toàn diện để hồi phục cảm xúc, tái thiết tương tác tích cực. Trị liệu cho trẻ ADHD không chỉ là sửa hành vi của con, mà còn là chữa lại cách cha mẹ sống và nuôi dạy. Nếu cha mẹ không đồng hành đúng, con càng bị tổn thương nhiều hơn sau mỗi lần tưởng như mình được chữa.

=> Không nhất quán gia đình nên mỗi người một kiểu chiều chuộc hoặc nghiêm khắc lộn xộn lên con: Từ đó sai vì con trẻ bị ADHD là đứa trẻ tự do và lộn xộn nên nếu người lớn lộn xộn thì con không thể có một đường thẳng kỷ luật hoặc nhận thức đúng để điều chỉnh tính cách, cảm xúc…

Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền đã luôn cảnh báo phụ huynh trong rất nhiều năm nay:

=> Đến 90% trẻ ADHD bị chẩn đoán sai ngay từ đầu đó là chỉ chẩn đoán biểu hiện mà không chẩn đoán toàn diện tất cả các yếu tố tạo ra ADHD và các yếu tố sẽ là nhân tố gây biến chứng từ ADHD từ đó hầu hết bị bỏ lỡ thời gian vàng do bị hiểu lầm là hiếu động. Và chỉ đến khi trẻ học kém, mất kiểm soát hành vi, có vấn đề về cảm xúc thì cha mẹ mới hoảng sợ tìm cách trị liệu – lúc đó đã là giai đoạn muộn.

=> Hầu hết các con bị can thiệp sai cộng thêm không tới nơi nên trị không dứt điểm khi chỉ nén hành vi nhưng không trị liệu ADHD từ gốc nên con có thể ổn về hành vi, cảm xúc trong khoảng vài năm ở mầm non nhưng vào tiểu học phát tác mạnh hoặc có nhiều con phải vào cấp 2 mới phát tác mạnh kèm các biến chứng. Và cha mẹ chỉ thực sự lo lắng khi nào con không thể học được văn hóa, nếu con vẫn học được thì thậm chí vấn đề ADHD của con bị bỏ qua hoàn toàn cho đến khi con bị biến chứng sang các ngưỡng rối loạn tâm thần cũng không biết rằng nó chính là từ ADHD đã không được trị liệu dứt điểm tạo ra.

1. Giai đoạn từ 2 tuổi đến trước 5 tuổi ( Giai đoạn vàng)

=> Mức độ phục hồi gần như tối đa hoặc đáng kể

=>Trẻ giảm rõ triệu chứng ADHD theo thời gian

=> Trẻ phát triển gần như bình thường khi vào tiểu học

✴️ Vì sao đây là “giai đoạn vàng”?

=> Não bộ còn đang phát triển mạnh mẽ: Từ 0– 5tuổi, đặc biệt là 2– 4 tuổi, hệ thần kinh của trẻ có độ mềm dẻo cao. Việc tác động đúng giúp tái cấu trúc các vùng thần kinh liên quan đến chú ý, kiểm soát hành vi và cảm xúc tốt.

=> Chưa bị ảnh hưởng bởi các hệ quả tâm lý thứ phát: Con trẻ chưa bị tâm lý Tự ti vì thất bại học tập, Bị kỳ thị bởi thầy cô, bạn bè, Tổn thương mối quan hệ với cha mẹ và các vấn đề tính cách, tâm lý bất ổn khác nên khả năng “chữa lành” tâm lý hoàn toàn cao hơn từ đó trị liệu phục hồi các biểu hiện khác tốt hơn.

=> Thời điểm phát hiện sớm dễ phân biệt với tính khí hiếu động: Nếu được chuyên gia chẩn đoán đúng từ sớm, trẻ sẽ không bị nhầm với “hiếu động”, “bướng” hay “trẻ thông minh nghịch ngợm”. Điều này ngăn chặn can thiệp sai – vốn là nguyên nhân khiến ADHD kéo dài thậm chí khiến chệch hướng biến chứng nặng nề hơn.

2. Giai đoạn từ 5 – trước 9 tuổi (Còn chút manh mối và hi vọng)

=> Cơ hội phục hồi vẫn còn nhưng ít vì Trẻ đã bước vào môi trường học tập nghiêm túc → dễ phát sinh stress, xung đột, tự ti, chống đối, bất hợp tác

=> Rất vất vả vì phải can thiệp đồng thời nhiều mặt: Tư duy nhận thức toàn diện – hành vi – cảm xúc – học tập – kỹ năng và khả năng tương tác xã hội

3. Từ 9 tuổi trở lên (trễ và phải trị liệu cả biến chứng)

=> Trẻ có nguy cơ sang các biến chứng như Mắc rối loạn lo âu, trầm cảm, rối loạn cảm xúc, nghiện game, hành vi nguy cơ cao và rất nhiều các rối loạn khác trong cả tâm lý, tinh cách…

=> Nên Khó phục hồi hoàn toàn, chỉ kiểm soát ở mức độ ổn định và không sang các biến chứng rối loạn tâm thần nặng hơn hoặc các biến chứng tâm thần khác

Dưới đây là hướng dẫn phân biệt giữa trẻ hiếu động bình thường và trẻ tăng động giảm chú ý (ADHD) theo quan điểm chuyên gia Phạm Hiền – người có kinh nghiệm thực tiễn trong đánh giá, can thiệp hàng nghìn ca ADHD từ mức nhẹ đến phức tạp:

1. Bảng so sánh sơ bộ

Mức độ hoạt động: HIẾU ĐỘNG -> Năng lượng cao nhưng có kiểm soát – ADHD -> Không kiểm soát, hoạt động liên tục

Phản ứng khi nhắc nhở: HIẾU ĐỘNG -> Biết lắng nghe, điều chỉnh sau khi được nhắc – ADHD -> Không nghe, hoặc nghe nhưng không làm theo

Chú ý – Tập trung: HIẾU ĐỘNG -> Dễ bị xao nhãng nhưng có thể tập trung lại khi được hỗ trợ – ADHD -> Không thể duy trì chú ý, rất nhanh quên hoặc không hoàn thành việc

Tình huống tăng động: HIẾU ĐỘNG -> Chỉ tăng khi vui, hứng thú, gặp bạn – ADHD -> Tăng động ở mọi hoàn cảnh, kể cả lúc cần yên tĩnh

Giao tiếp – ngôn ngữ: HIẾU ĐỘNG -> Biết chờ lượt, biết lắng nghe người khác – ADHD -> Nói không ngừng, ngắt lời, không biết kiềm chế lời nói

Khả năng kiểm soát cảm xúc: HIẾU ĐỘNG -> Có thể khóc, giận… nhưng biết dừng lại – ADHD -> Dễ bùng nổ, chuyển trạng thái nhanh, không kiềm chế được cảm xúc

Giấc ngủ – ăn uống: HIẾU ĐỘNG -> Bình thường, có thể hơi khó ngủ khi quá phấn khích – ADHD -> Rối loạn giấc ngủ, chập chờn, ăn uống kém ổn định

Tính kiên trì: HIẾU ĐỘNG -> Hoàn thành nhiệm vụ nếu hứng thú hoặc được động viên – ADHD -> Bỏ cuộc nhanh chóng, không theo đến cùng

Hành vi nguy hiểm: HIẾU ĐỘNG -> Biết sợ, biết tránh nguy hiểm – ADHD -> Leo trèo, nhảy nhót, chạy ra đường… không cảm nhận được rủi ro

Quan hệ xã hội: HIẾU ĐỘNG -> Có bạn, thích giao tiếp, chơi nhóm – ADHD -> Dễ gây mâu thuẫn, khó hòa nhập, hay bị bạn từ chối

P/s: Đương nhiên còn nhiều các dấu hiệu khác chi tiết. Tuy nhiên chỉ cần hiểu đúng:

=> Trẻ hiếu động là sự phát triển bình thường về mặt vận động, cảm xúc – có thể kiểm soát nhưng Trẻ tăng động giảm chú ý (ADHD) là rối loạn phát triển thần kinh, liên quan đến vùng kiểm soát hành vi, chú ý, cảm xúc → cần can thiệp chuyên sâu, không thể “dạy dỗ thông thường”.

=> Trẻ hiếu động không cần trị liệu – chỉ cần học các lớp khắc phục và phát triển là con thay đổi . Nhưng nếu là ADHD mà bị hiểu nhầm là hiếu động và dạy kiểu thông thường từ đó để chậm can thiệp, trị liệu thì hệ quả sẽ kéo dài tới tuổi trưởng thành.”

2. Tại sao cha mẹ thường nhầm lẫn trẻ tăng động giảm chú ý và trẻ hiếu động

Đây là một trong những sai lầm phổ biến nhất khiến nhiều trẻ tăng động giảm chú ý (ADHD) không được can thiệp sớm, theo chia sẻ và cảnh báo từ chuyên gia Phạm Hiền – người đã tư vấn, chẩn đoán và trị liệu cho hàng nghìn trường hợp trẻ có rối loạn phát triển.

✴️ Thiếu kiến thức chuyên môn về phát triển não bộ và hành vi

=> Nhiều cha mẹ, trung tâm can thiệp chỉ nhìn vào biểu hiện bề ngoài (trẻ nghịch, chạy nhảy, nói nhiều…) mà không hiểu bản chất thần kinh bên trong.

=> Cha mẹ hay nghĩ: “Con tôi khỏe mạnh, thông minh, chỉ hơi nghịch thôi mà!”

✴️ Nghe theo lời khuyên dân gian hoặc cộng đồng thiếu cơ sở

=> Nhiều cha mẹ cho rằng “Con trai thì nghịch là bình thường”, “Lớn rồi sẽ tự bớt thôi”, “Đừng ép con học quá sớm, để tự nhiên là tốt nhất”.

=> Những câu nói này làm chậm lại quá trình phát hiện và can thiệp kịp thời.

=> Nhiều cha mẹ tạo thêm sự phát tác nhanh, mạnh hơn khi cho rằng ” Nó không thể ngồi được và hoạt động nhiều có nghĩa là hành vi là thế mạnh nên để nó được tự do để nó phát huy”

✴️ Không biết rằng ADHD là một rối loạn phát triển thần kinh

=> ADHD không phải là một dạng “tăng nghịch” thông thường, mà là tổn thương hoặc chậm phát triển ở vùng não kiểm soát nhận thức, chú ý, hành vi, cảm xúc.

=> Nếu không can thiệp đúng hướng, trẻ sẽ: Gặp khó khăn nghiêm trọng ở trường học, Bị cô lập xã hội, Dễ phát triển các rối loạn tâm lý thứ phát như trầm cảm, lo âu, rối loạn cảm xúc lưỡng cực…

✴️ Các dấu hiệu ADHD không phải lúc nào cũng “nổi bật”

=> Nhiều trẻ ADHD có biểu hiện rất thông minh, lanh lợi, nói sớm → khiến cha mẹ nhầm là “con phát triển tốt”.

=> Thực tế, trẻ nói nhanh nhưng không nghe kỹ, hoặc không biết chờ đến lượt, khó điều chỉnh cảm xúc → là cảnh báo ADHD.

Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền luôn nhấn mạnh Việc nuôi dạy một đứa trẻ bị ADHD (Tăng động giảm chú ý) khác rất nhiều so với nuôi dạy một đứa trẻ phát triển điển hình (trẻ không có rối loạn). Sự khác biệt này không chỉ nằm ở cách giao tiếp, mà còn ở toàn bộ tư duy – chiến lược – mức độ kiên nhẫn và chiến đấu với chính mình để vượt qua của cha mẹ.

1. Bảng so sánh sơ bộ

=> Khả năng chú ý: THƯỜNG -> Có thể tập trung theo lứa tuổi, dù đôi lúc xao nhãng – ADHD -> Mất tập trung nhanh, dễ bị phân tán bởi âm thanh, hình ảnh, môi trường

Phản ứng với quy tắc: THƯỜNG -> Hiểu – nhớ – làm theo nếu được nhắc – ADHD -> Cần được lặp đi lặp lại, hình ảnh hóa quy tắc, cần luyện mỗi ngày

Hành vi bốc đồng : THƯỜNG -> Biết chờ đến lượt, dần biết kiềm chế – ADHD -> Hành động không suy nghĩ, chen ngang, hét to, làm trước rồi mới nghĩ

Khả năng ngồi yên: THƯỜNG -> Có thể ngồi học, chơi yên trong thời gian phù hợp – ADHD -> Luôn cử động, khó ngồi yên, dễ chán, chuyển hoạt động liên tục

Khả năng hoàn thành nhiệm vụ: THƯỜNG -> Dễ hoàn thành từ đầu đến cuối – ADHD -> Bắt đầu nhiều – bỏ dở nhiều, không nhớ mình đang làm gì

Phản ứng với kỷ luật: THƯỜNG -> Hiểu lý do bị phạt/khen – dễ điều chỉnh – ADHD -> Hay phản ứng chống đối, dễ bị hiểu nhầm là “cứng đầu”

Dạy 1 lần là hiểu: THƯỜNG -> Có thể dạy 1–2 lần là ghi nhớ – ADHD -> Cần nhắc nhở lặp đi lặp lại hàng chục lần mới dần ghi nhớ

Thời gian thay đổi hành vi: THƯỜNG -> Có thể cải thiện rõ trong vài tuần – ADHD -> Cần 2–3 tháng trở lên để thấy cải thiện, và phải kiên trì duy trì

2. Cách nuôi dạy con ADHD khác các con khác

✴️ Nhận diện đúng ADHD – không đánh đồng với hiếu động

=> Trẻ ADHD không chỉ nghịch, mà còn thiếu kiểm soát hành vi, giảm chú ý nghiêm trọng và khó tập trung dù có cố gắng.

=> Cha mẹ đừng để bị lừa bởi những giai đoạn con ngoan bất thường rồi tưởng con hết tăng động – đó chỉ là ‘nghỉ giữa hiệp’.”

✴️ ADHD là rối loạn phát triển – cần can thiệp, trị liệu chứ không chờ đợi

=> Không bao giờ cso tư duy và dùng phương pháp chờ lớn rồi con sẽ tự khác”.

=> Thay vào đó, phải can thiệp sớm trong “giai đoạn vàng” 3-7 tuổi, để não bộ trẻ còn đủ độ mềm dẻo tiếp thu trị liệu.

✴️ Kiên trì hơn – nhẫn nại hơn – lặp lại nhiều hơn Trẻ ADHD không cố tình làm sai, mà bộ não của con chưa đủ khả năng kiểm soát nên

=> Cha mẹ cần Nói và giao tiếp vafp vấn để cụ thể với quy trình ngắn – rõ – đều – đúng tông

=> Dạy và thực hành cùng con Lặp lại quy tắc để tạo thói quen hằng ngày, minh họa bằng hình ảnh, hành động, kỹ năng cụ thể.

✴️ Kỷ luật mềm – Không áp dụng “thưởng – phạt” kiểu cảm xúc

=> Với trẻ bình thường: cha mẹ mắng nhẹ là sợ nhưng với con trẻ ADHD rất nhạy cảm, nhưng cũng rất dễ thách thức giới hạn. Nếu dùng đòn roi, trẻ sẽ không sợ mà học cách lỳ đòn hơn.”

=> Không Phạt hành vi, không xúc phạm cảm xúc mà Ra quy tắc rõ ràng – cụ thể – ngắn gọn, Lặp đi lặp lại nhất quán.

=> Phải Dùng hệ thống điểm/ công nhận và dán nhãn niềm tin con thay đổi cụ thể

✴️ Giúp con “dừng lại – suy nghĩ – hành động”, không “làm rồi mới hối hận”

=> Dạy con thói quen: dừng 10 đến 20 giây giây trước khi làm (qua trò chơi trị liệu).

=> Dùng từ khóa nhất quán giúp con tự kiểm soát, ví dụ: “Dừng lại – nhìn mẹ – nghe chỉ dẫn”.

✴️ Chia nhỏ mọi hoạt động – hỗ trợ từng bước

=> Bài tập → chia từng phần nhỏ, không giao dồn dập.

=> Giao nhiệm vụ bằng câu lệnh ngắn: “Lấy vở → viết tên → dừng lại → chờ mẹ kiểm tra.”

✴️ Yêu thương nhưng có nguyên tắc

=> Trẻ ADHD cảm xúc rất nhạy, rất dễ bị tổn thương nếu bị so sánh hoặc nhãn dán (“đồ hư”, “đồ lì”, “bất trị”). Tuy nhiên, nếu cha mẹ nuông chiều vì xót, con càng khó trị.

=> Cần yêu con đúng cách, không buông lỏng – cũng không áp lực.

P/s: Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền luôn nhấn mạnh với phụ huyn có con bị ADHD “Bạn không thể dạy con ADHD bằng cách bạn đã dạy đứa lớn nhà bạn. Vì bộ não chúng đang rối loạn – bạn cần đi chậm hơn, rõ ràng hơn và kiên nhẫn hơn gấp 10 lần thậm chí nhiều lần hơn nữa…”

✴️ Cha mẹ phải thay đổi trước khi yêu cầu con thay đổi

=> Cha mẹ cần hiểu Đứa trẻ ADHD không sai khi chúng chưa học được cách kiểm soát bản thân. Sai là khi người lớn cứ ép nó theo cách của người bình thường.”

=> Cha mẹ cần Học cách hiểu não bộ con để Tự điều chỉnh kỳ vọng phù hợp mức độ phát triển của con, Thay đổi giọng điệu, ngôn từ, cách phản ứng trước hành vi sai của trẻ.

✴️ Tạo môi trường ổn định – ít kích thích

=> Trẻ ADHD rất dễ bị kích thích quá mức nên Không cho trẻ dùng thiết bị điện tử tùy ý (giới hạn tối đa).

=> Bố trí góc học tập gọn – không màu mè – không TV bên cạnh và Chia nhỏ thời gian học và nghỉ thay vì ép ngồi lâu.

✴️ Có lộ trình nuôi dạy và can thiệp, trị liệu các vấn đề của con rõ ràng

=> Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền thường nói với các cha mẹ ” Chuyên gia không chữa trẻ. Chuyên gia dạy cha mẹ làm thế nào để chữa lành đứa con của mình để chủ động cao nhất trong hành trình nuôi dạy con đúng.”

=> Cha mẹ phải nỗ lực để gỡ bỏ hiểu sai, áp lực vô hình., Học công cụ giao tiếp, dạy kỹ năng điều chỉnh hành vi Tập luyện tư duy xử lý tình huống thường gặp tại nhà.

✴️ Cần phối hợp trường – chuyên gia – gia đình

=> Nếu chỉ một mình cha mẹ thay đổi, nhưng nhà trường không hiểu, hoặc ông bà vẫn “xót cháu”, thì trẻ dễ tái diễn hành vi.

=> Bắt buộc phải đồng hành 3 bên để đảm bảo tiến trình can thiệp, trị liệu liền mạch trong nhất quán giúp con thay đổi nhanh trong tất cả các môi trường mà con tham gia.

P/s: Một vài thông điệp Chuyên gia Phạm Hiền thường chia sẻ với các cha mẹ khi gặp:

=> Con không muốn trở thành đứa trẻ như thế. Não con đang rối loạn nên con không hiểu thế nào là phải con không nghe lời.”

=> Khi cha mẹ đủ hiểu con đúng với các vấn đề của con và nhẫn nại đồng hành thì con sẽ đủ tin và đủ chiến đấu để để thay đổi.”

=> Tăng động không phải là tội lỗi. Sai lầm nằm ở cách ứng xử của người lớn gồm cha mẹ, thầy cô, bạn bè và những người con gặp mà không hiểu con.

Dưới đây là lộ trình trị liệu ADHD 90 ngày do chuyên gia tâm lý Phạm Hiền xây dựng và áp dụng. Đây là lộ trình đã giúp nhiều trẻ thay đổi tích cực, đặc biệt trong độ tuổi từ 3–10 tuổi

1. Mục tiêu cần đạt

=> Ổn định cảm xúc và hành vi của trẻ.

=> Tăng khả năng kiểm soát bản thân – giảm xung động.

=> Củng cố kỹ năng tập trung, hoàn thành nhiệm vụ.

=> Trang bị cho cha mẹ công cụ giáo dục, dạy con đúng.

2. Lộ trình trị liệu 90 ngày phá vỡ rào cản

Đây là lộ trình phá vỡ để ngăn chặn ADHD nặng và phá vỡ các rối loạn ADHD đã ở mức độ báo động rất cao

GIAI ĐOẠN 1: LÀM MỀM BỘ NÃO VÀ LÀM MỚI CHA MẸ ( (0–30 NGÀY)

✴️ Mục tiêu:

=> Tạo liên kết an toàn cảm xúc giữa trẻ và người lớn.

=> Gỡ bỏ hành vi chống đối, lỳ lợm, phá phách.

=> Thay đổi cách giao tiếp – tương tác của cha mẹ với con.

✴️ Nội dung chính:

=> Đánh giá toàn diện: Tư duy – cảm xúc – hành vi – ngôn ngữ – vận động – chú ý – kỹ năng – khả năng

=>Tư vấn riêng cho cha mẹ: giúp hiểu đúng ADHD, gỡ bỏ quan niệm sai.

=> Bắt đầu thiết lập thói quen, quy tắc cơ bản tại nhà.

=> Dạy con “kỹ năng dừng lại”, kỹ năng nghe – thực hiện chỉ dẫn.

GIAI ĐOẠN 2 : ĐIỀU CHỈNH – RÈN KỶ LUẬT NỘI TÂM ( (30–60 NGÀY)

✴️ Mục tiêu:

=> Bắt đầu kiểm soát hành vi bốc đồng, cải thiện khả năng chờ đợi.

=> Hình thành sự chủ động và tuân thủ nội quy một cách chủ động.

=> Trẻ học được cách tự điều chỉnh cảm xúc khi thất vọng/giận dữ.

✴️ Nội dung chính:

=> Áp dụng “công cụ dạy hành vi có hệ thống” (từ dễ đến khó).

=> Dạy kỹ năng: Tự kiểm tra lại bản thân, Chuyển đổi hoạt động không bị khủng hoảng, Kiên trì hoàn thành từng nhiệm vụ nhỏ.

=> Cha mẹ được hướng dẫn con tư duy và sử dụng : Biểu đồ nguyên tắc kỳ luật, Kế hoạch nhiệm vụ chi tiết

GIAI ĐOẠN 3 : HỌC CÁCH CỦNG CỐ – TỰ CHỦ – CHUYỂN HÓA (60–90 NGÀY)

✴️ Mục tiêu:

=> Trẻ thành thạo các công cụ tự điều chỉnh hành vi.

=> Tăng dần khả năng tập trung, kiên trì, kiểm soát cảm xúc trong môi trường trường lớp.

=> Gia đình vận hành độc lập phương pháp can thiệp tại nhà.

✴️ Nội dung chính:

=> Đẩy mạnh rèn: Tư duy có mục tiêu, Hoàn thành công việc đầu–đuôi, Phân biệt hành vi tốt – chưa tốt qua các tình huống.

=> Phối hợp nhà trường để đánh giá mức độ chuyển hóa.

=> Hướng dẫn cha mẹ cách duy trì lâu dài – ngăn tái phát hành vi cũ.

3. Cha mẹ được đào tạo gì trong lộ trình

=> Kỹ năng phát triển tư duy nhận thức, kỹ năng và khả năng thể hiện bản thân đúng cho con

=> Kỹ năng thiết lập quy tắc – ranh giới với con.

=> Cách điều chỉnh cảm xúc cha mẹ khi con khủng hoảng.

=> Cách đưa ra chỉ dẫn – phần thưởng – xử lý khi con không hợp tác.

=> Hiểu được từng kiểu hành vi ADHD: bốc đồng, né tránh, “thỏa thuận giả”.

=> Cách dùng ngôn ngữ và giao tiếp cư xử đúng: nói ít – rõ – đúng nhịp não con.

4. Một số lưu ý cha mẹ cần biết

=> Mỗi trẻ ADHD sẽ có một bản kế hoạch can thiệp, trị liệu cá nhân toàn diện và cụ thể.

=> Lộ trình có thể duy trì sang nhiều tháng hơn tùy theo mức độ rối loạn, biến chứng của con trẻ và ý thức tiếp cận áp dụng phương pháp của cha mẹ

=> Không khuyến khích dùng thuốc trừ trường hợp nặng – và cần có chỉ định y khoa rõ ràng.

Dưới đây là những phản hồi thực tế của phụ huynh sau khi cùng con tham gia lộ trình trị liệu ADHD theo phương pháp của chuyên gia Phạm Hiền trong các chương trình trị liệu cá nhân hóa

1. Phụ huynh trước đây từng định cho con uống thuốc – nay đã đổi hướng

=> Con tôi 5 tuổi đã uống thuốc từ 4 tuổi với mong muốn ổn định tăng động. Tôi đã từng tin, nhưng con trở nên lờ đờ, thụ động hẳn. Sau 90 ngày theo lộ trình con tôi không còn ném đồ, biết nhìn mẹ khi được gọi, và đặc biệt có thể ngồi học một mạch cả giờ đồng hồ.

2. Gia đình từng bất lực và la hét mỗi ngày – giờ đã ‘sống lại’

=> Trước kia tôi đã từng khóc vì con mỗi tối. Con không học được, chạy suốt, đập phá, nói dối, không biết hối lỗi. Bác chuyên gia Phạm Hiền không dạy con tôi trước mà bắt tôi phải thay đổi quan điểm nhìn nhận vấn đề của con, của cha mẹ trước . Ban đầu tôi và chồng thấy lạ thậm chí có chút khó chịu nhưng sau 3 tuần tôi đã hiểu ” chính tôi và bố của con là người cần thay đổi.”

3. Bước ngoặt khi con đi học không còn bị cô giáo gọi lên mỗi ngày

=> Trước kia ngày nào cũng có cuộc gọi từ cô giáo than phiền con tôi không ngồi yên, đánh bạn, không làm bài. Sau lộ trình 60 ngày, cô giáo bảo: ‘Không ngờ cùng một đứa trẻ mà khác đến thế’. Con có thể giơ tay phát biểu, không còn cãi cô nữa.” Còn ông bảo vệ ở cổng trường thì bảo ” ơ nó là em hay anh của thằng hay quậy phá đấy, sao giống nhau thế nhưng ngoan hơn”

4. Con đã có thể chơi cùng bạn – không còn bị tẩy chay

=> Tôi đau lòng nhất là thấy con không có bạn. Bạn chơi với con 1 buổi rồi bỏ vì con cứ giành đồ, hét, đánh. Giờ thì khác rồi. Con tôi biết chờ đến lượt, biết nói xin lỗi, và có 2 người bạn thân mới

5. Phụ huynh từng nghĩ “vô vọng” – nay mong được lan tỏa

=> Tôi từng nghĩ con tôi ‘bất trị’. Người lớn còn không chịu được nó, ai dạy nổi? .Nhưng cô Phạm Hiền đã ‘mổ xẻ’ từng hành vi, từng sai lầm của tôi. Tôi bây giờ không còn đánh con nữa, mà biết cách ‘dẫn dắt con”. Tôi ước gì con tôi được trị liệu đúng sớm hơn 2 năm.”

P/s: Chuyên gia Phạm Hiền chia sẻ chân tình nhưng nghiêm khắc với cha mẹ: Không có đứa trẻ nào không thể dạy – chỉ có người lớn chưa đủ cách. Nên phải bắt đầu từ việc gỡ từng lớp hiểu sai của cha mẹ trước.

6. Lời khuyên và khuyến cáo của phụ huynh đã trị liệu từ chuyên gia để các phụ huynh khác hiểu đúng hành trình chiến đấu vì con

Dưới đây là những lời khuyên – lời nhắn gửi chân thành từ chính các phụ huynh đã từng đồng hành cùng con ADHD trong hành trình trị liệu với chuyên gia Phạm Hiền, dành cho các cha mẹ khác đang loay hoay, bối rối hoặc tuyệt vọng. Nó là những chia sẻ xuất phát từ trải nghiệm thật, đôi khi là nước mắt, đôi khi là sự thức tỉnh hối hận đau đớn – nhưng trên hết là tình yêu không bỏ cuộc.

✴️ Đừng phủ nhận con – và cũng đừng che giấu bệnh của con

=> Tôi từng xấu hổ khi người khác biết con tôi tăng động. Tôi gồng mình để che giấu, để con trông ‘bình thường’. Nhưng đó là sai lầm.

=> Bài học là Khi tôi dám thừa nhận vấn đề, là lúc tôi bắt đầu hành trình chữa lành cho chính mình và cho con.

✴️ Thuốc không phải là câu trả lời duy nhất nó chỉ là sự hỗ trợ khi con đã quá nặng

=> Tôi đã từng định bỏ cuộc, nghe theo bác sĩ kê thuốc để ‘cho nó yên’. Nhưng con tôi lờ đờ, mất luôn cái hồn hiếu động, ngoài ra mất kiểm soát cao hơn trong cả cảm xúc và hành vi.

=> Bài học là Thuốc có thể là phương tiện tạm thời, nhưng điều cốt lõi phải là cha mẹ học cách thay đổi để dạy con đúng.

✴️ Bạn phải học – học thật sự – trước khi đòi hỏi con thay đổi:

=> Tôi từng nói: ‘Sao con cứ làm mẹ phát điên?’. Nhưng tôi đã phải xin lỗi con sau tuần đầu học với chuyên gia. Bác ấy bắt tôi ghi nhật ký hành vi, quay lại phản ứng của chính mình khi mắng con. Tôi thấy mình sai gần hết.

=> Bài học là Đừng đổ lỗi cho con. Hãy học để hiểu con – rồi bạn sẽ dẫn được con ra khỏi mê cung.

✴️ Kỳ vọng thấp thôi – rồi bạn sẽ thấy điều kỳ diệu

=> Ngày đầu tiên, tôi chỉ mong con ngồi được 10 phút không chạy. Và đến tuần thứ 6, con tôi đã có thể ngồi đọc sách 15 đến 30 phút.

=> Bài học là Nếu tôi cứ mơ con phải giỏi như bạn A, B, tôi sẽ thất vọng mãi. Hãy mừng từng bước nhỏ – vì trẻ ADHD cần thời gian, rất nhiều thời gian.”

6. Không ai hiểu con bạn bằng chính bạn – nên bạn phải chiến đấu vì con

=> Có những lúc người ngoài nói: ‘Con chị thế là hư’, ‘Dạy không được thì cho vào trại đi’. Đau lắm. Nhưng tôi không cãi nữa.

=> Bài học là khi tôi có phương pháp và Tôi tập trung vào con, đi từng bước theo lộ trình vạch ra. Giờ thì con tôi không còn bị đuổi học, không còn bị đánh giá là ‘kẻ phá rối’. Chỉ cha mẹ mới có quyền quyết định con mình có cơ hội thay đổi hay không.”

7. Đừng chỉ tìm người chữa con – hãy tìm người dạy mình cách sống lại với con

=> Tôi đến với chuyên gia với tâm thế: ‘Cô chữa giúp con tôi đi’. Nhưng rồi tôi hiểu Không ai có thể thay cha mẹ trong hành trình này. Chuyên gia Phạm Hiền không dạy con tôi trước – cô dạy tôi: từng câu nói, cách đặt tay, cách xử lý cơn bốc đồng.

=> Bài học là cha mẹ không được phép là hai đường thẳng song song

8. Đôi khi chuyên gia Phạm Hiền sẽ rất khắt khe với các cha mẹ nếu không chịu thay đổi

=> Không chấp nhận con thì đừng mong người khác chấp nhận con.

=> Đừng quá kỳ vọng ép con và phủ nhận thay đổi của con mà không công nhận từng thay đổi nhỏ của nó.

=> Cha mẹ phải học để dạy con mọi lúc mọi nới chứ không phải chỉ con và phục thuộc vào bất kỳ ai

=> Kiên trì – kiên định – đứt gánh giữa đường thì đừng đổ lỗi cho con không thể thay đổi

=> Hãy đồng hành cùng chuyên gia có tâm – đừng tự mò mẫm quá lâu.

=> Đừng né tránh hoặc giấu bệnh, đừng giấu con mình đi – đối diện mới có cửa thay đổi.

=> Không ai chiến đấu vì con bằng chính bạn. Đừng nhờ người khác gánh hộ.

=> Đừng bắt con lớn thì tự biết mà phải thay đổi trong khi bố mẹ không biết con như thế nào để bản thân phải thay đổi trước

3. HIỂU VỀ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ (ASD) & GÓC NHÌN CỦA PHỤ HUYNH VỀ LIỆU PHÁP TRỊ LIỆU CỦA CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN
(XEM THÊM)

I. HIỂU ĐÚNG VỀ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ (ASD)

Rối loạn phổ tự kỷ (Autism Spectrum Disorder – ASD) là một rối loạn phát triển thần kinh ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp, tương tác xã hội và hành vi. Các dấu hiệu của tự kỷ có thể khác nhau tùy theo độ tuổi và mức độ nghiêm trọng. Dưới đây là các dấu hiệu theo từng độ tuổi

1. Dấu hiệu của con trẻ bị Rối loạn phổ tự kỷ

Trẻ sơ sinh (0 – 12 tháng tuổi) – Dấu hiệu cảnh báo sớm

+ Ít hoặc không giao tiếp bằng mắt (không nhìn vào mặt người khác khi được gọi tên)

+ Không phản ứng khi gọi tên sau 6 tháng tuổi

+ Không cười xã giao (social smile) vào khoảng 2 – 3 tháng tuổi

+ Không bập bẹ, không nói lảm nhảm vào khoảng 6 – 9 tháng

+ Không thể hiện sự quan tâm đến người khác, như không quay đầu khi có âm thanh hay người gọi

+ Ít hoặc không bắt chước nét mặt, âm thanh, động tác đơn giản của người lớn

+ Không vươn tay đòi bế, không có cử chỉ chỉ trỏ, vẫy tay

Trẻ nhỏ (1 – 3 tuổi) – Dấu hiệu thường gặp

+ Không có lời nói rõ ràng sau 16 tháng tuổi

+ Không biết chỉ tay hoặc giao tiếp bằng cử chỉ

+ Không biết chơi giả vờ (như giả vờ cho búp bê ăn) vào khoảng 18 – 24 tháng

+ Không phản ứng với tên gọi

+ Không chia sẻ sở thích hoặc cảm xúc với người khác (ví dụ: không khoe món đồ chơi)

+ Lặp đi lặp lại một hành vi (vỗ tay, xoay tròn, xếp đồ vật theo hàng dài)

+ Gặp khó khăn khi thay đổi thói quen hoặc môi trường

+ Không có hứng thú chơi cùng trẻ khác

Trẻ mẫu giáo (3 – 6 tuổi) – Dấu hiệu rõ ràng hơn

+ Khó thiết lập và duy trì mối quan hệ xã hội

+ Không hiểu cách chơi cùng người khác (ví dụ không chơi luân phiên)

+ Ngôn ngữ lặp lại (echolalia), nhắc lại lời nói người khác mà không hiểu nghĩa

+ Giao tiếp đơn điệu, ít biểu cảm gương mặt

+ Không dùng ngôn ngữ để giao tiếp xã hội (chỉ dùng để yêu cầu)

+ Chậm phát triển trí tuệ ở một số lĩnh vực, nhưng có thể rất giỏi ở các lĩnh vực khác (tính toán, ghi nhớ)

+ Có thói quen cứng nhắc, dễ cáu gắt nếu thay đổi nhỏ trong sinh hoạt

Trẻ tiểu học (6 – 12 tuổi) – Dấu hiệu thường gặp

+ Giao tiếp xã hội hạn chế, khó bắt chuyện, giữ cuộc trò chuyện

+ Không hiểu các quy tắc xã hội ngầm (ví dụ: khoảng cách giao tiếp, ánh mắt, biểu cảm)

+ Ám ảnh với một chủ đề cụ thể (ví dụ: chỉ thích xe lửa, bản đồ, số)

+ Có thói quen lặp lại, rập khuôn (ví dụ: luôn đi theo một đường nhất định)

+ Khó thể hiện cảm xúc hoặc không phản ứng phù hợp với cảm xúc người khác

+ Dễ bị bắt nạt, tách biệt khỏi bạn bè vì khác biệt trong hành vi

Vị thành niên (12 tuổi trở lên) – Dấu hiệu thường thấy

+ Cô lập xã hội, thiếu bạn thân

+ Vẫn còn khó khăn trong hiểu và sử dụng ngôn ngữ phi ngôn ngữ (biểu cảm, ngữ điệu)

+ Chậm hiểu các tình huống xã hội phức tạp

+ Có thể phát triển lo âu, trầm cảm do bị cô lập hoặc bị hiểu lầm

+ Vẫn duy trì thói quen rập khuôn hoặc sở thích bất thường

+ Gặp khó khăn trong lập kế hoạch và linh hoạt tư duy

P/s: Mỗi trẻ có thể biểu hiện khác nhau, không phải trẻ tự kỷ nào cũng có tất cả các dấu hiệu. Việc phát hiện sớm và can thiệp kịp thời (đặc biệt trước 3 tuổi) rất quan trọng để cải thiện khả năng giao tiếp, hành vi và hòa nhập xã hội.

2. Tham khảo đánh giá mức độ của các dấu hiệu theo độ tuổi

Từ 0 – 12 tháng

+ Mức độ nhẹ (Cao chức năng): Giao tiếp mắt ít – Chậm phản ứng khi gọi tên

+ Mức độ trung bình: Ít cử chỉ giao tiếp – Không bập bẹ đúng giai đoạn

+ Mức độ nặng (Thấp chức năng): Không phản ứng với người – Không có giao tiếp bằng mắt – Không có cử chỉ xã hội

Từ 1 – 3 tuổi

+ Mức độ nhẹ (Cao chức năng) : Ít nói, chậm nói – Không dùng cử chỉ để giao tiết – Có hành vi lặp lại nhẹ

+ Mức độ trung bình: Không biết chơi giả vờ – Thường lập lại lời người khác – Giao tiếp khó khăn

+ Mức độ nặng (Thấp chức năng): Không nói được từ đơn nào – Không biểu hiện cảm xúc với người khác – Lặp lại hành vi liên tục

Từ 3 – 6 tuổi

+ Mức độ nhẹ (Cao chức năng) : Có thể nói chuyện đơn giản – Không chơi chung với bạn nhưng biết quan sát – Chỉ quan tâm đến một số chủ đề cụ thể

+ Mức độ trung bình: Giao tiếp đơn điệu, khó duy trì cuộc hội thoại – Không hiểu cách chơi tương tác

+ Mức độ nặng (Thấp chức năng): Không dùng ngôn ngữ giao tiếp – Không thể chơi cùng bạn – Thường xuyên nổi cáu, la hét khi thay đổi môi trường

Từ 6 – 12 tuổi

+ Mức độ nhẹ (Cao chức năng) : Khó hiểu quy tắc xã hội – Chậm kết bạn – Quan tâm chuyên sâu đến một lĩnh vực

+ Mức độ trung bình: Không hiểu cảm xúc người khác – Cô lập trong nhóm bạn – Có hành vi lặp lại ở trường

+ Mức độ nặng (Thấp chức năng): Không thể giao tiếp hiệu quả bằng lời nói – Bị bắt nạt, không thể hoà nhập – Gặp khó khăn nghiêm trọng trong học tập

Từ 12 tuổi trở lên

+ Mức độ nhẹ (Cao chức năng): Vẫn có thể học và giao tiếp bình thường nhưng vụng về xã hội – Có lo âu xã hội nhẹ

+ Mức độ trung bình: Thiếu hiểu biết về mối quan hệ, hành vi không phù hợp – Không hiểu ẩn ý trong giao tiếp

+ Mức độ nặng (Thấp chức năng): Rối loạn giao tiếp nghiêm trọng – Cần hỗ trợ toàn thời gian – Không tự chăm sóc bản thân được

3. Hướng dẫn cách quan sát và ghi nhận hành vi của con trẻ để sàng lọc

Nguyên tắc quan sát

+ Quan sát trong môi trường tự nhiên -> Quan sát khi trẻ chơi, ăn, tương tác với người khác ở nhà, trường, công viên…

+ Ghi chép theo hành vi cụ thể -> Không ghi chung chung (“bé kỳ lạ”) mà phải cụ thể (“bé không nhìn vào mắt khi được gọi tên 3 lần”)

+ Ghi rõ thời gian và ngữ cảnh -> Khi nào hành vi xảy ra? (giờ ăn, lúc chơi, lúc mệt mỏi…)

+ So sánh với mốc phát triển bình thường -> Dựa trên những kỹ năng trẻ nên có ở từng độ tuổi

+ Ghi nhận cả hành vi tích cực và bất thường -> Không chỉ tập trung vào điều tiêu cực, mà cũng ghi nhận các kỹ năng trẻ có được

Lập mẫu ghi nhận hành vi

+ Lập lịch trình hoạt động của con trong 1 ngày của mỗi tháng

+ Quan sát các biểu hiện để ghi chép

+ So sánh sự tiến lên hay thụt lùi các biểu hiện theo từng ngày, tuần, tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm

P/s: Ví dụ bảng quan sát gồm các tiêu chí Thời gian/ Tình huống/Hành vi/Tần suất/Ghi chú tiến triển/Ghi chú biểu hiện khác liên quan

8:00 sáng -> Gọi bé ăn sáng -> Không quay đầu lại khi gọi tên 3 lần -> Không có phản ứng mặt 3 lần.

9:30 sáng -> Chơi một mình -> Xếp xe đồ chơi thành hàng dài, không chơi tương tác 15 phút liên tục -> Gạt tay mẹ khi mẹ tham gia chơi các lần

4. Hướng dẫn quan sát theo từng độ tuổi

TRẺ (0 – 12 THÁNG)

a. Kỹ năng cần quan sát

+ Giao tiếp mắt khi bú, thay tã, gọi tên

+ Cử chỉ xã hội: cười, đáp lại nụ cười

+ Phản ứng âm thanh, quay đầu khi gọi

+ Bập bẹ, ê a, tương tác giọng nói

b. Câu hỏi gợi ý

+ Bé có cười lại khi bạn mỉm cười với bé không?

+ Bé có phản ứng khi bạn gọi tên không?

+ Bé có nhìn theo đồ vật bạn chỉ tay không?

c. Ghi nhận

+ Không phản ứng khi gọi tên > 6 tháng

+ Không cười xã hội > 3 tháng

+ Không bập bẹ > 9 tháng

TRẺ (1 – 3 TUỔI)

a. Kỹ năng cần quan sát

+ Giao tiếp bằng cử chỉ (chỉ tay, lắc đầu, gật đầu)

+ Sử dụng lời nói (gọi, đòi hỏi, từ đơn)

+ Biết bắt chước (vỗ tay, nhảy, chơi giả vờ)

+ Hành vi tương tác: nhìn người khác, chơi song song

b. Câu hỏi gợi ý

+ Khi bé muốn đồ chơi, bé có chỉ không hay chỉ kéo tay bạn?

+ Bé có gọi tên bố mẹ không?

+ Bé có giả vờ cho thú nhồi bông ăn, uống?

c. Ghi nhận

+ Không có từ đơn nào > 16 tháng

+ Không chơi giả vờ > 18 – 24 tháng

+ Không thể hiện cảm xúc/quan tâm người khác

TRẺ (3 – 6 TUỔI)

a. Kỹ năng cần quan sát

+ Sử dụng câu nói để tương tác

+ Biểu cảm khuôn mặt khi vui/buồn/giận

+ Biết chơi luân phiên, chờ đợi đến lượt

+ Phản ứng khi bị từ chối, khi có thay đổi

b. Câu hỏi gợi ý

+ Bé có trả lời khi bạn hỏi “Hôm nay con chơi gì ở lớp?” không?

+ Bé có biết chia sẻ đồ chơi, thay phiên khi chơi không?

+ Bé có bị kích động mạnh khi thay đổi lịch trình?

c. Ghi nhận

+ Giao tiếp đơn điệu, không cảm xúc

+ Lặp lại câu hỏi thay vì trả lời

+ Không hiểu cách chơi cùng trẻ khác

TRẺ (6 – 12 TUỔI)

a. Kỹ năng cần quan sát

+ Kỹ năng nói chuyện: khởi đầu, duy trì, kết thúc

+ Hiểu ngụ ý, biểu cảm gương mặt người khác

+ Biết quy tắc xã hội: chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi

+ Có bạn bè không, hay chơi một mình

b. Câu hỏi gợi ý

+ Bé có kể chuyện trôi chảy không? Biết hỏi lại người khác không?

+ Bé có hiểu khi bạn giả vờ buồn/vui không?

+ Bé có chơi với bạn không? Có được bạn mời sinh nhật?

c. Ghi nhận

+ Chỉ nói về sở thích của mình

+ Không nhận ra cảm xúc người khác

+ Không chơi nhóm, luôn chơi một mình

TRẺ VỊ THÀNH NIÊN (TỪ 12 TUỔI TRỞ LÊN)

a. Kỹ năng cần quan sát

+ Khả năng điều chỉnh hành vi xã hội

+ Biết hiểu và đồng cảm với người khác

+ Có bạn thân, quan hệ xã hội thực sự

+ Khả năng thích nghi với thay đổi và áp lực

b. Câu hỏi gợi ý

+ Con có ai tâm sự cùng không?

+ Con có cảm thấy cô đơn, lạc lõng ở lớp không?

+ Con có hiểu khi người khác nói đùa không?

c. Ghi nhận

+ Không thể duy trì quan hệ bạn bè

+ Không hiểu ẩn ý, ngôn ngữ cơ thể

+ Tăng lo âu, trầm cảm vì bị cô lập

Việc nhận diện nhầm lẫn rối loạn phổ tự kỷ (ASD) với các rối loạn khác như chậm phát triển trí tuệ (ID), rối loạn ngôn ngữ, hoặc rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) là khá phổ biến, đặc biệt trong giai đoạn sàng lọc ban đầu rất qua trọng. Dưới đây là các cảnh báo nhầm lẫn thường gặp, cùng với cách phân biệt giúp bố mẹ tránh sai sót khi quan sát và đánh giá.

1. Tại sao dễ gây nhầm lẫn

+ Các dấu hiệu chồng lấn nhau -> Ví dụ: trẻ tự kỷ và trẻ chậm phát triển trí tuệ đều có thể chậm nói, khó hòa nhập xã hội

+ Trẻ có thể mắc đồng thời nhiều rối loạn -> Trẻ có thể vừa bị tự kỷ vừa bị tăng động hoặc chậm phát triển trí tuệ

+ Biểu hiện thay đổi theo tuổi và môi trường -> Một số trẻ chỉ biểu hiện rõ rệt khi đến tuổi đi học hoặc khi môi trường thay đổi

2. Phân biệt Rối loạn phổ tự kỷ với các rối loạn khác

Rối loạn Tự kỷ (ASD) với Chậm phát triển trí tuệ (Intellectual Disability – ID)

+ Giao tiếp xã hội ASD (Suy giảm rõ, tránh giao tiếp mắt, không chia sẻ cảm xúc) – ID (Có thể chậm nhưng vẫn muốn giao tiếp với người khác)

+ Chơi giả vờ ASD (Thường không biết chơi giả vờ) – ID ( Có thể chậm nhưng vẫn chơi đúng theo hướng dẫn)

+ Ngôn ngữ ASD (Phát triển không đồng đều, có thể lặp lại, đơn điệu) – ID (Chậm toàn diện nhưng ít lặp lời, diễn đạt đơn giản)

+ Sở thích ASD (Quan tâm hẹp, lặp đi lặp lại) – ID (Không có đặc điểm bất thường về sở thích)

+ IQ ASD (Có thể bình thường hoặc cao (tự kỷ chức năng cao) ) – ID (IQ thường dưới 70)

P/s: Cảnh báo nhầm lẫn: Trẻ tự kỷ có thể có trí tuệ bình thường nhưng kỹ năng xã hội kém nên dễ bị đánh giá sai là chậm phát triển trí tuệ.

Rối loạn Tự kỷ (ASD) với Rối loạn ngôn ngữ ( DLD)

+ Giao tiếp phi ngôn ngữ ASD (Kém: không chỉ tay, không nhìn người khác khi giao tiếp) – DLD (Tốt: biết dùng cử chỉ, nét mặt để giao tiếp)

+ Sử dụng ngôn ngữ ASD (Thường dùng lời nói không phù hợp ngữ cảnh, lặp lại) – DLD (Có thể chậm nói nhưng sử dụng từ đúng mục đích)

+ Tương tác xã hội ASD (Thiếu hứng thú tương tác, chơi một mình ) DLD (Muốn chơi với người khác dù khó biểu đạt bằng lời)

P/s: Cảnh báo nhầm lẫn: Trẻ chậm nói nhưng thích giao tiếp, có tương tác mắt tốt thường không phải tự kỷ.

Rối loạn Tự kỷ (ASD) với Tăng động giảm chú ý (ADHD)

+ Tương tác xã hội ASD (Thiếu kỹ năng, không hiểu quy tắc xã hộ)i – ADHD ( Có kỹ năng xã hội nhưng không kiểm soát hành vi tốt)

+ Tập trung chú ý ASD (Tập trung tốt khi làm việc mình thích (dù kéo dài và hẹp) – ADHD ( Thiếu tập trung liên tục ở mọi tình huống)

+ Hành vi lặp lại ASD (Có hành vi rập khuôn, nghi thức) – ADHD ( Không có hành vi rập khuôn, mà là bốc đồng, xung động)

+ Khả năng thay đổi ASD ( Rất sợ thay đổi, phản ứng mạnh với thay đổi nhỏ ) – ADHD (Có thể chuyển hoạt động dễ nhưng không kiên trì)

P/s: Cảnh báo nhầm lẫn Trẻ ADHD thường có khả năng giao tiếp xã hội tốt hơn trẻ tự kỷ, nhưng dễ bị chẩn đoán nhầm nếu không đánh giá kỹ hành vi xã hội.

Rối loạn Tự kỷ (ASD) với Lo âu xã hội / Trầm cảm (SAD/MDD)

+ Khởi phát ASD (Từ rất sớm (trước 3 tuổi) – SAD/MDD (Thường sau 8 tuổi, có yếu tố tâm lý kích hoạt)

+ Hành vi lặp lại ASD (Có thói quen rập khuôn, sở thích bất thường) – SAD/MDD ( Không có hành vi lặp lại)

+ Quan hệ xã hội ASD (Không hiểu hoặc không quan tâm đến xã hội ) – SAD/MDD (Muốn hòa nhập nhưng bị cản trở bởi lo âu, tự ti)

P/s: Quan sát hành vi xã hội và cảm xúc, không chỉ ngôn ngữ hay chỉ số IQ. Đánh giá đa chiều: giáo viên, cha mẹ, chuyên gia tâm lý – không chỉ một người đánh giá

Dưới đây là cảnh báo nhầm lẫn các biểu hiện của rối loạn phổ tự kỷ (ASD) với chậm phát triển trí tuệ (ID) và các rối loạn phát triển khác được trình bày chi tiết theo từng độ tuổi, giúp bạn phân biệt chính xác hơn trong từng giai đoạn phát triển của trẻ.

1. Trẻ sơ sinh ( 0 – 12 tháng )

+ Không cười xã hội DỄ NHẦM Trầm cảm sơ sinh / Thiếu kích thích PHÂN BIỆT Tự kỷ: không cười cả khi được kích thích. Trẻ bị thiếu kích thích sẽ cải thiện khi được tương tác nhiều.

+ Không phản ứng khi gọi tên DỄ NHẦM Nghe kém / Chậm phát triển trí tuệ PHÂN BIỆT Tự kỷ: không quay đầu dù thính lực bình thường. Chậm phát triển thường vẫn có phản ứng phi ngôn ngữ khác (cười, với tay).

+ Ít giao tiếp mắt DỄ NHẦM Trẻ nhút nhát / Trẻ sơ sinh yếm vận động PHÂN BIỆT Tự kỷ: tránh giao tiếp mắt một cách rõ rệt và kéo dài. Trẻ nhút nhát có thể giao tiếp mắt khi quen người.

2. Trẻ nhỏ (1 – 3 tuổi)

+ Không nói được từ đơn > 16 tháng DỄ NHẦM Chậm nói do môi trường / Rối loạn ngôn ngữ PHÂN BIỆT Tự kỷ: kèm thiếu tương tác xã hội, không chỉ tay. Chậm nói đơn thuần vẫn dùng cử chỉ, có mong muốn giao tiếp.

+ Không chơi giả vờ (ví dụ: cho búp bê ăn) DỄ NHẦM Chậm phát triển trí tuệ PHÂN BIỆT Tự kỷ: thiếu hoàn toàn sự tưởng tượng. Chậm trí có thể bắt chước chơi nếu được hướng dẫn.

+ Không chia sẻ niềm vui / sở thích với người khác DỄ NHẦM Nhút nhát bẩm sinh / Lo âu xã hội PHÂN BIỆT Tự kỷ: không chia sẻ, không khoe đồ chơi, không tìm kiếm ánh mắt người khác khi vui. Nhút nhát: có chia sẻ khi quen.

3. Trẻ mẫu giáo (3 – 6 tuổi)

+ Lặp lại lời người khác (echolalia) DỄ NHẦM Trẻ đang học nói / Rối loạn ngôn ngữ PHÂN BIỆT Tự kỷ: lặp lại không mục đích, không đúng ngữ cảnh. Rối loạn ngôn ngữ: lặp do khó phát âm, vẫn có ý định giao tiếp.

+ Không chơi chung với trẻ khác DỄ NHẦM Chậm phát triển / Trẻ nhút nhát PHÂN BIỆT Tự kỷ: không hiểu cách chơi tương tác, không thích gần trẻ khác. Nhút nhát: có thể quan sát và tham gia khi được khuyến khích.

+ Bám theo thói quen nghi thức (nghi thức cố định như xếp hàng đồ vật) DỄ NHẦM Tính cách cầu toàn / Nghi thức do rối loạn lo âu PHÂN BIỆT Tự kỷ: phản ứng mạnh nếu thay đổi nghi thức. Trẻ lo âu có thể lo lắng nhưng vẫn điều chỉnh được.

4. Trẻ tiểu học (6 – 12 tuổi)

+ Không có bạn thân / hay chơi một mình DỄ NHẦM Trầm cảm trẻ em / Lo âu xã hội PHÂN BIỆT Tự kỷ: không biết thiết lập và duy trì mối quan hệ. Trầm cảm: từng có bạn, bị rút lui dần.

+ Chỉ nói về chủ đề yêu thích, lặp lại DỄ NHẦM ADHD / Tăng động trí tuệ cao PHÂN BIỆT Tự kỷ: lặp dai dẳng, không quan tâm phản ứng người khác. ADHD: có thể thay đổi chủ đề, nói lan man nhưng vẫn phản hồi người nghe.

+ Không hiểu các quy tắc ngầm trong giao tiếp DỄ NHẦM Chậm phát triển xã hội / Kém thích nghi PHÂN BIỆT Tự kỷ: không hiểu ánh mắt, khoảng cách, biểu cảm. Trẻ kém thích nghi vẫn hiểu nếu được nhắc.

5. Tuổi vị thành niên (12 tuổi trở lên)

Giao tiếp xã hội kém, vụng về DỄ NHẦM Tự ti / Rối loạn lo âu xã hội PHÂN BIỆT Tự kỷ: thiếu hiểu biết bẩm sinh về xã hội, không hiểu ẩn ý. Lo âu: hiểu xã hội nhưng sợ, né tránh.

Có sở thích kỳ lạ (ví dụ: ghi nhớ biển số xe, bản đồ) DỄ NHẦM Trí tuệ vượt trội / Đặc điểm cá nhân PHÂN BIỆT Tự kỷ: sở thích chiếm trọn thời gian, không linh hoạt. Người có trí tuệ cao: sở thích đa dạng, có thể chuyển đổi.

Không hiểu lời nói đùa / ẩn dụ DỄ NHẦM Chậm tiếp thu / Trẻ ít tiếp xúc xã hội PHÂN BIỆT Tự kỷ: không hiểu nghĩa bóng dù được giải thích. Trẻ ít tiếp xúc có thể hiểu khi được làm rõ.

Tóm tắt cảnh báo nhầm lẫn theo độ tuổi

+ Từ 0–1 tuổi DỄ NHẦM Nghe kém, trầm cảm sơ sinh CẦN QUAN SÁT Giao tiếp mắt, phản ứng tên gọi.

+ Từ 1–3 tuổi DỄ NHẦM Chậm nói, chậm phát triển trí tuệ CẦN QUAN SÁT Cử chỉ giao tiếp, chơi giả vờ, chia sẻ cảm xúc.

+ Từ 3–6 tuổi DỄ NHẦM Rối loạn ngôn ngữ, ADHD CẦN QUAN SÁT Lặp lời, chơi tương tác, thay đổi thói quen

+ Từ 6–12 tuổi DỄ NHẦM ADHD, trầm cảm, rối loạn học tập CẦN QUAN SÁT Tương tác xã hội, duy trì mối quan hệ

+ Từ 12+ tuổi DỄ NHẦM Trầm cảm, lo âu xã hội CẦN QUAN SÁT Hiểu ẩn ý, cảm xúc xã hội, thích nghi xã hội

Hiện nay, có nhiều chẩn đoán nhầm hoặc chưa chính xác liên quan đến rối loạn phổ tự kỷ (ASD), dẫn đến việc phụ huynh hiểu sai về bản chất của tự kỷ, gây ra hậu quả trong việc chăm sóc, can thiệp và định hướng tương lai cho trẻ. Dưới đây là các chẩn đoán nhầm lẫn phổ biến, lý do xảy ra, và hậu quả đối với phụ huynh, các con

1. Các chẩn đoán nhầm phổ biến với rối loạn phổ tự kỷ

+ Chậm phát triển trí tuệ DỄ NHẦM VỚI TỰ KỶ DO Trẻ chậm nói, thiếu kỹ năng xã hội THỰC CHẤT LÀ Trẻ có khả năng tư duy bình thường nhưng kém kỹ năng giao tiếp xã hội (ASD)

+ Rối loạn ngôn ngữ DỄ NHẦM VỚI TỰ KỶ DO Trẻ không nói được, chậm nói THỰC CHẤT LÀ Trẻ tự kỷ không chỉ chậm nói mà không chủ động giao tiếp

+ Tăng động giảm chú ý (ADHD) DỄ NHẦM VỚI TỰ KỶ DO Trẻ tăng động, thiếu tập trung THỰC CHẤT LÀ ADHD và ASD có thể đồng mắc, nhưng mỗi rối loạn có cơ chế riêng

+ Lo âu xã hội, trầm cảm DỄ NHẦM VỚI TỰ KỶ DO Trẻ rút lui, cô lập xã hội THỰC CHẤT LÀ Trẻ ASD thiếu khả năng hiểu cảm xúc – khác với né tránh do lo âu “Tự kỷ giả” / Tự kỷ chức năng cao hoặc Trẻ có hành vi kỳ lạ nhưng thông minh Trẻ có thể mắc ASD mức độ nhẹ, nhưng không phải là “giả”

2. Những hiểu sai phổ biến của phụ huynh khi có chẩn đoán sai

Nghĩ rằng trẻ chỉ “chậm nói”, lớn lên sẽ tự khỏi

+ Hiểu sai: “Con tôi chỉ chậm nói, không có gì đáng lo.”

+ Thực tế: Tự kỷ không chỉ là chậm nói mà còn là suy giảm tương tác xã hội và hành vi rập khuôn.

+ Hậu quả: Trì hoãn can thiệp sớm → mất giai đoạn vàng phát triển.

Nghĩ rằng tự kỷ là do nuôi dạy sai cách hoặc thiếu yêu thương

+ Hiểu sai: “Do bố mẹ không chơi với con, con mới bị tự kỷ.”

+ Thực tế: ASD là rối loạn phát triển thần kinh, không phải do cách nuôi dạy.

+ Hậu quả: Cảm giác tội lỗi, căng thẳng trong gia đình, tìm đến các liệu pháp không khoa học.

Nghĩ rằng tự kỷ là bệnh tâm thần, cần uống thuốc

+ Hiểu sai: “Tự kỷ là tâm thần, cần điều trị bằng thuốc an thần.”

+ Thực tế: Tự kỷ là một rối loạn phát triển, không phải tâm thần. Thuốc chỉ hỗ trợ triệu chứng đi kèm (lo âu, tăng động), không chữa khỏi tự kỷ.

+ Hậu quả: Dùng thuốc sai cách, lệ thuộc vào thuốc, bỏ qua can thiệp hành vi – ngôn ngữ.

Nghĩ rằng con thông minh, biết đọc sớm thì không thể là tự kỷ

+ Hiểu sai: “Con tôi biết chữ lúc 3 tuổi thì không thể là tự kỷ.”

+ Thực tế: Trẻ tự kỷ chức năng cao có thể có năng lực vượt trội (như thiên tài toán học, trí nhớ siêu phàm), nhưng vẫn rối loạn giao tiếp xã hội nghiêm trọng.

+ Hậu quả: Bỏ qua các vấn đề cảm xúc – xã hội vì chỉ nhìn vào điểm mạnh.

Nghĩ rằng tự kỷ có thể “chữa khỏi hoàn toàn” nếu theo đúng phương pháp

+ Hiểu sai: “Chỉ cần đúng trung tâm là con sẽ hết tự kỷ.”

+ Thực tế: Tự kỷ không thể chữa khỏi, nhưng có thể cải thiện rõ rệt nếu can thiệp sớm, đúng phương pháp, cá nhân hóa cho từng trẻ.

+ Hậu quả: Đặt kỳ vọng quá cao → thất vọng, dễ bỏ dở can thiệp.

3. Hậu quả của chẩn đoán sai và hiểu nhầm

+ Trễ can thiệp sớm -> Can thiệp hiệu quả nhất trong giai đoạn 0–6 tuổi, nếu chẩn đoán sai sẽ bỏ lỡ “giai đoạn vàng”

+ Sai định hướng giáo dục -> Chọn môi trường không phù hợp nên trẻ không phát triển tối đa năng lực

+ Tốn kém chi phí sai mục tiêu -> Đầu tư vào thuốc, liệu pháp sai nên vừa hại trẻ, vừa hao tổn tài chính

+ Tăng lo âu và tội lỗi cho cha mẹ -> Cảm giác “bị dán nhãn”, thiếu thông tin rõ ràng gây tâm lý tiêu cực

+ Xáo trộn gia đình và mất niềm tin -> Tranh cãi trong gia đình, mất phương hướng và kiệt sức do hiểu nhầm bản chất rối loạn

Việc phụ huynh tin rằng trẻ tự kỷ có thể “chữa khỏi” hoàn toàn là một trong những hiểu lầm phổ biến nhất và nguy hiểm nhất, thường xuất phát từ việc chẩn đoán sai, thiếu kiến thức nền tảng về rối loạn phổ tự kỷ (ASD).

1. Vì sao phụ huynh tin rằng tự kỷ có thể chữa khỏi

Chẩn đoán sai hoặc chưa rõ ràng

+ Trẻ được gán nhãn “tự kỷ nhẹ”, “tự kỷ chức năng cao” nhưng thực tế là: Trẻ chỉ chậm nói, Trẻ tăng động, giao tiếp vẫn tốt, Trẻ thụ động và chậm tư duy tạm thời

+ Khi trẻ tiến bộ sau can thiệp, phụ huynh nghĩ rằng “đã khỏi bệnh”, mà không nhận ra rằng trẻ không hề bị tự kỷ ngay từ đầu.

+ Ngoài ra phần lớn phụ huynh chỉ chú ý cứ con trẻ nói được là đã khỏi nên càng bị nhầm lẫn tự kỷ có thể chữa khỏi mà không quan tâm đến rất nhiều các yếu tố khác đang tồn tại khiếm khuyết

Các trung tâm quảng cáo “trị khỏi” tự kỷ

+ Một số nơi can thiệp sử dụng cụm từ như: Khỏi hoàn toàn sau 6 tháng trị liệu, Phá bỏ chứng tự kỷ cho trẻ….Điều này đánh vào tâm lý lo lắng, mong chữa khỏi nhanh của phụ huynh.

+ Ngoài ra nhiều trung tâm chẩn đoán không đúng, không đến nơi nên chỉ chú ý cứ con trẻ nói được là đã khỏi nên cha mẹ càng bị nhầm lẫn tự kỷ có thể chữa khỏi mà không quan tâm đến rất nhiều các yếu tố khác đang tồn tại khiếm khuyết

2. So sánh không đúng giữa trẻ ASD và trẻ có rối loạn khác

Trẻ bị rối loạn ngôn ngữ hoặc lo âu xã hội có thể phục hồi gần như hoàn toàn nếu can thiệp sớm nên dẫn đến hiểu nhầm rằng trẻ tự kỷ cũng có thể “hết bệnh” như vậy. Tự kỷ có chữa khỏi hoàn toàn được không?

+ Theo y khoa: Câu trả lời ngắn gọn: KHÔNG thể “chữa khỏi” rối loạn phổ tự kỷ. Nhưng Có thể cải thiện đáng kể, thậm chí gần như “bình thường hóa” chức năng ở một số trẻ nếu được can thiệp sớm và đúng cách.

+ Theo khoa học: ASD là một rối loạn phát triển thần kinh bẩm sinh – có sự khác biệt trong cấu trúc và chức năng não bộ, không phải là một bệnh lý có thể chữa khỏi như viêm phổi hay sốt virus. Tự kỷ nằm trên một phổ (spectrum) – nghĩa là có trẻ rất nặng (không nói, không giao tiếp), có trẻ rất nhẹ (chỉ vụng về xã hội). Một số trẻ sau can thiệp có thể đạt mức chức năng bình thường, nhưng vẫn có những đặc điểm “tự kỷ nền” nếu đánh giá kỹ lưỡng.

3. Hậu quả khi phụ huynh tin rằng “tự kỷ chữa được”

+ Chỉ cần trung tâm tốt là con sẽ khỏi –> Phụ huynh chạy theo quảng cáo, thay đổi liên tục trung tâm, gây áp lực cho cả gia đình và trẻ

+ Nếu con chưa khỏi, là do mình làm chưa đủ tốt –> Phụ huynh tự trách, trầm cảm, hoặc dễ bị lôi kéo vào các liệu pháp không chính thống

+ Tự kỷ là giai đoạn, sẽ qua –> Mất giai đoạn can thiệp vàng 0–6 tuổi, ảnh hưởng lâu dài đến phát triển xã hội và học tập

+ Con khỏi rồi, không cần can thiệp tiếp –> Ngưng hỗ trợ sớm → kỹ năng xã hội và điều tiết cảm xúc của trẻ suy giảm trở lại khi gặp áp lực mới (lớp học, tuổi dậy thì)

4. Vậy mục tiêu thực tế của can thiệp là gì?

+ Không phải: Chữa khỏi hoàn toàn, “xóa sạch” tự kỷ

+ Mà là: Giúp trẻ phát triển tối đa tiềm năng. Cải thiện khả năng giao tiếp, học tập và hòa nhập. Tăng chất lượng cuộc sống cho cả trẻ và gia đình

5. Phụ huynh cần hiểu thực tế sai lầm

+ Sai lầm: Con tôi bị tự kỷ – tôi phải chữa khỏi.

+ Hiểu đúng: Con tôi có đặc điểm phát triển khác biệt – tôi cần hỗ trợ con đúng cách để con sống hạnh phúc và chủ động

Vấn đề những đứa trẻ không phải là trẻ tự kỷ, nhưng bị chẩn đoán nhầm thành rối loạn phổ tự kỷ (ASD) rồi bị can thiệp sai hướng là một thực trạng nghiêm trọng và âm thầm đang diễn ra ở nhiều nơi. Đây không chỉ là sai sót y khoa hay giáo dục, mà còn là một loại thiệt thòi sâu sắc, âm thầm tước đi cơ hội phục hồi để được phát triển lớn lên và trưởng thành đúng của trẻ.

1. Những đối tượng dễ bị nhầm với trẻ tự kỷ

+ Trẻ chậm phát triển ngôn ngữ đơn thuần –> Trẻ không nói nên tưởng là không giao tiếp

+ Trẻ chậm phát triển trí tuệ (ID) –> Thiếu kỹ năng xã hội, phản ứng chậm

+ Trẻ rối loạn gắn bó do sang chấn tâm lý –> Tránh giao tiếp, lo âu cao, thờ ơ cảm xúc

+ Trẻ rối loạn lo âu xã hội / trầm cảm sớm –> Không chủ động tương tác, rút lui xã hội

+ Trẻ tăng động giảm chú ý (ADHD) –> Thiếu tập trung, bốc đồng, rối loạn hành vi

2. Hậu quả của việc chẩn đoán sai và can thiệp sai hướng

Can thiệp không đúng bản chất vấn đề

+ Trẻ không có ASD nhưng bị đưa vào chương trình dạy theo mô hình ABA nghiêm ngặt, lặp đi lặp lại nên không phù hợp với nhịp phát triển của trẻ.

+ Trẻ chỉ chậm nói nhưng bị “cấm nói” vì chương trình tập trung vào hành vi nên mất đi cơ hội phát triển ngôn ngữ tự nhiên.

+ Trẻ bị bỏ qua các liệu pháp đúng như: ngôn ngữ trị liệu, trị liệu tâm lý (cho trẻ bị sang chấn), giáo dục đặc biệt theo trí tuệ chậm…

P/s: Hậu quả sẽ khiến Lạc hướng phát triển, bỏ lỡ “giai đoạn vàng”, gây tổn thương sâu cho trẻ và gia đình.

Đánh mất niềm tin của chính trẻ vào bản thân

+ Trẻ bị “đóng khung” là “tự kỷ”, không được mong đợi như một đứa trẻ đang lớn lên bình thường.

+ Khi trẻ có tiến bộ – thay vì được ghi nhận là dấu hiệu phát triển đúng – lại bị xem như “phép màu chữa khỏi tự kỷ”.

+ Trẻ mất quyền được là chính mình, mọi hành vi đều bị phân tích qua lăng kính “tự kỷ”.

P/s: Hậu quả khiến Trẻ hình thành cảm giác lệch chuẩn, tự nghi ngờ bản thân, ảnh hưởng tâm lý về lâu dài.

Gia đình kiệt quệ vì theo đuổi một mục tiêu sai

+ Phụ huynh bị dẫn dắt sai nên theo đuổi những chương trình can thiệp đắt tiền, không phù hợp.

+ Cả gia đình sống trong căng thẳng, bị ám ảnh bởi “chữa khỏi tự kỷ”.

+ Khi thấy con tiến bộ (vì đúng ra con không bị (ASD), phụ huynh tưởng là nhờ “phương pháp đặc biệt”, không nhận ra đó là tiến trình tự nhiên bị trì hoãn.

P/s: Hậu quả khiến cha mẹ Đổ vỡ niềm tin, mất tiền bạc, thời gian, công sức, nhiều phụ huynh rơi vào trầm cảm, mất phương hướng và không tiếp tục giúp con nữa vì cho rằng con đã hết thuốc chữa

Tước đi của trẻ cơ hội phục hồi đúng

+ Một đứa trẻ chậm nói nếu được can thiệp ngôn ngữ sớm, có thể hoàn toàn theo kịp bạn bè. Nhưng khi bị “gán nhãn tự kỷ”, trẻ sẽ bị đưa vào mô hình can thiệp hành vi – không hỗ trợ ngôn ngữ đúng cách.

+ Một đứa trẻ chậm phát triển trí tuệ nhẹ hoàn toàn có thể học nghề, hòa nhập cộng đồng nếu được dạy kỹ năng chức năng phù hợp. Nhưng nếu bị chẩn đoán là “tự kỷ”, trẻ sẽ không được xây dựng chương trình giáo dục thực tế.

+ Một đứa trẻ bị sang chấn tâm lý cần trị liệu cảm xúc – thay vào đó bị “huấn luyện hành vi” → dẫn đến tổn thương kéo dài, trầm cảm hóa hoặc lệch hành vi nặng hơn.

P/s: Hậu quả khiến Mất cơ hội vàng để phục hồi đúng, thậm chí trẻ đi sai hướng cả đời không thể phục hồi và phát triển

3. Sự thiệt thòi sâu sắc của những đứa trẻ này

+ Nhân phẩm THIỆT THÒI Trẻ bị “gán nhãn” sai → không được tôn trọng như một cá thể đang phát triển bình thường

+ Cơ hội THIỆT THÒI Mất giai đoạn vàng để can thiệp đúng rối loạn thực sự (chậm nói, chậm trí, lo âu…)

+ Tâm lý THIỆT THÒI Hình thành cảm giác mình “bị lỗi”, bị điều chỉnh như cỗ máy

+ Giáo dục THIỆT THÒI Không được học đúng chương trình, sai lệch định hướng giáo dục

+ Xã hội THIỆT THÒI Bị tách ra khỏi cộng đồng một cách không cần thiết – trở thành “người không thuộc về”

4. Làm sao để bảo vệ trẻ khỏi chẩn đoán sai

+ Chẩn đoán cần đa chuyên ngành: bác sĩ nhi tâm lý, nhà trị liệu ngôn ngữ, giáo viên đặc biệt, phụ huynh cùng phối hợp

+ Không chỉ phụ thuộc vào công cụ cứng mà phải đi sâu vào màu sắc phát triển riêng của con trẻ, giáo dục của cha mẹ để đa dạng hóa các chẩn đoán nhằm đúng với bản chất của con

+ Không chẩn đoán “quá sớm” khi chưa đủ dữ kiện – cần quan sát qua thời gian, nhiều môi trường

+ Luôn đặt câu hỏi: Liệu đây là tự kỷ – hay chỉ là một giai đoạn phát triển lệch chuẩn tạm thời?

+ Các nhà chuyên môn cần truyền thông đúng cho phụ huynh và cộng đồng giáo dục: “Chậm phát triển không có nghĩa là tự kỷ!”

P/s: Không phải trẻ nào chậm nói, chậm phát triển hay hành vi lạ cũng là tự kỷ. Việc gán nhãn sai không chỉ làm sai lệch hướng phát triển của trẻ, mà còn vô tình “lấy mất” tương lai mà lẽ ra các con có thể có.

Đây là một thực trạng rất phổ biến hiện nay gây hậu quả, sự thiệt thòi và mất mát của những đứa trẻ này vì chúng không được phục hồi đúng

1. Vì sao trẻ tự kỷ bị “chẩn đoán sai nhẹ” hoặc bị bỏ qua?

+ Gia đình phủ nhận, không chấp nhận nhãn tự kỷ vì Sợ bị kỳ thị nên dùng những từ nhẹ hơn “con chỉ chậm nói thôi”, “nó chỉ nhút nhát thôi” , ” nó chỉ thụ động thôi”, ” Nó chỉ là không có mong muốn thôi”

+ Tâm lý Tự trấn an: Mấy tuổi rồi nó cũng nói hoặc Bố nó ngày xưa cũng vậy mà giờ thành đạt hoặc anh chị nó cũng như vậy nhưng nó có thay đổi ( trong khi có khi anh chị nó chỉ là thay đổi chút về nói, học được một chút do dập khuông, còn lại các kỹ năng khác hầu như không có)

+ Né tránh chẩn đoán chuyên sâu vì sợ phải đối diện với sự thật hoặc do bị ám thị quá nhiều con không sao đâu nên cứ nói sâu, nói rộng, nói xa là phản kháng nhận thức trong chấp nhận tiếp nhận

2. Can thiệp không đúng mục tiêu

+ Gửi trẻ đến các lớp kỹ năng sống, lớp mầm non thường mà không có giáo viên chuyên biệt

+ Học các lớp “rèn nề nếp”, học chữ sớm nhưng không phát triển kỹ năng giao tiếp – xã hội – hành vi, vốn là cốt lõi của tự kỷ

+ Không kiên trì, nhẫn nại và can thiệp cho con mọi lúc mọi nơi

+ Chỉ can thiệp đơn lẻ hành vi, ghi nhớ sao chụp mà không trị liệu gốc các vấn đề từ hệ thần kinh, năng lực khác của con trẻ

3. Hậu quả của việc bỏ lỡ chẩn đoán tự kỷ và can thiệp đúng

+ Mất “giai đoạn vàng” (0–6 tuổi) để can thiệp sớm

+ Hiểu sai Tự kỷ không chữa khỏi nhưng cần phải biết có thể cải thiện rất nhiều nếu can thiệp đúng từ sớm

+ Trẻ càng can thiệp trễ thì càng khó cải thiện ngôn ngữ, Càng tăng hành vi bất thường, Càng khó hòa nhập xã hội về sau

+ Trẻ bị dán nhãn sai và học không đúng cách

+ Gọi là chậm phát triển -> Bị dạy theo chương trình trí tuệ thấp, không khai mở khả năng tiềm ẩn

+ Cho học lớp bình thường -> Không được hỗ trợ điều tiết cảm xúc, giao tiếp nên gây mâu thuẫn, bạo lực, bị cô lập

+ Dán nhãn “lười, bướng” -> Trẻ bị phạt, bị la mắng – hành vi ngày càng tiêu cực hơn

+ Trẻ hấp thu sai kỹ năng, phản ứng sai với xã hội

+ Không biết giao tiếp đúng cách, dẫn đến hiểu sai tín hiệu xã hội → bị bạn bè tránh xa

+ Không học được kỹ năng tự điều tiết cảm xúc → dễ bùng nổ, dễ bị hiểu nhầm là có vấn đề về đạo đức

+ Không học được cách thể hiện nhu cầu → dẫn đến im lặng, cô lập kéo dài

+ Tổn thương tâm lý nghiêm trọng theo thời gian

+ Trẻ cảm thấy “Tôi không được hiểu”, “Tôi khác biệt mà không ai giải thích vì sao”

+ Dễ dẫn đến trầm cảm, lo âu xã hội, hành vi tự làm đau bản thân ở tuổi vị thành niên

+ Có trường hợp trẻ tự đánh giá thấp bản thân, mất niềm tin vào khả năng chính mình

4. Sự thiệt thòi sâu sắc của các con bị “bỏ sót” chẩn đoán tự kỷ

+ Giáo dục THIỆT THÒI Không được học chương trình can thiệp, trị liệu phù hợp

+ Xã hội THIỆT THÒI Bị hiểu lầm là lười, bướng, vô cảm – dễ bị cô lập, bắt nạt

+ Gia đình THIỆT THÒI Không biết cách giao tiếp với con, dễ nổi giận – gây rạn nứt quan hệ cha mẹ – con

+ Tâm lý THIỆT THÒI Hình thành niềm tin sai lệch: “Mình luôn sai”, “Không ai hiểu mình”

+ Tương lai THIỆT THÒI Rối loạn kéo dài, khó tự lập, dễ phụ thuộc, giảm khả năng có cuộc sống độc lập

So sánh hai hướng đi khác nhau

+ CHẨN ĐOÁN ĐÚNG Con được can thiệp chuyên biệt về giao tiếp, hành vi, cảm xúc — CHẨN ĐOÁN SAI Chỉ học các kỹ năng chung hoặc bị ép học sớm

+ CHẨN ĐOÁN ĐÚNG Con Có thể phát triển ngôn ngữ, điều tiết cảm xúc tốt hơn — CHẨN ĐOÁN SAI Tăng dần khoảng cách với bạn bè, khó bắt kịp

+ CHẨN ĐOÁN ĐÚNG Phụ huynh hiểu đúng, đồng hành đúng cách — CHẨN ĐOÁN SAI Phụ huynh kỳ vọng sai, dễ thất vọng, phạt trẻ

+ CHẨN ĐOÁN ĐÚNG Con Trẻ hòa nhập tốt hơn trong môi trường giáo dục và xã hội — CHẨN ĐOÁN SAI Trẻ bị lạc lõng, dễ phát sinh rối loạn tâm lý thứ phát

5. Làm gì để tránh bỏ sót chẩn đoán tự kỷ?

+ Tầm soát và sàng lọc đúng thời điểm (18–36 tháng tuổi)

+ Nếu trẻ có dấu hiệu bất thường, nên được đánh giá đa chuyên ngành

+ Phụ huynh cần được truyền thông đúng về tự kỷ – không kỳ thị, không phủ nhận

+ Trường học cần đào tạo giáo viên mầm non nhận diện sớm dấu hiệu rối loạn phát triển

P/s: Cha mẹ Hãy nhớ rằng Nếu con đúng là trẻ tự kỷ – thì không chỉ can thiệp đơn lẻ mà phải trị liệu sớm toàn diện. Đó là là món quà yêu thương lớn nhất bạn có thể trao cho con. Tự kỷ không phải là điều đáng xấu hổ mà là một thực tế cần được chấp nhận, hiểu rõ và hỗ trợ đúng. Trẻ không được chẩn đoán đúng không phải là “may mắn” – mà là trẻ đang mất đi cơ hội được lớn lên một cách trọn vẹn nhất.

Biết mức độ sẽ giúp cha mẹ hiểu đúng và hỗ trợ đúng cho con trẻ có các rối loạn phát triển. Việc phân biệt mức độ nghiêm trọng và bản chất các rối loạn khác nhau là vô cùng quan trọng, bởi nếu đánh giá sai hoặc đánh đồng, trẻ sẽ bị can thiệp lệch hướng, mất đi cơ hội phục hồi phù hợp, thậm chí ảnh hưởng cả đời.

1. Phân tích mức độ nghiêm trọng theo từng rối loạn

+ Rối loạn Tự kỷ (ASD) BẢN CHẤT Rối loạn phát triển thần kinh sâu rộng (toàn diện: ngôn ngữ – xã hội – hành vi) MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN Rất cao vì Có thể không giao tiếp, không hòa nhập, lệ thuộc suốt đời KHẢ NĂNG PHỤC HỔI NẾU CAN THIỆP ĐÚNG Tùy mức độ, nhưng can thiệp đúng sớm sẽ cải thiện rõ

+ Rối loạn Chậm phát triển trí tuệ (ID) BẢN CHẤT Trí tuệ dưới mức trung bình, ảnh hưởng đến toàn bộ chức năng học tập và thích nghi MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN Rất Cao vì Giảm khả năng học, tự chăm sóc, dễ phụ thuộc KHẢ NĂNG PHỤC HỔI NẾU CAN THIỆP ĐÚNG Hạn chế, nhưng có thể đạt mức sống bán độc lập nếu hỗ trợ sớm

+ Rối loạn Chậm nói/Ngôn ngữ BẢN CHẤT Rối loạn ngôn ngữ, có thể do nhiều nguyên nhân: môi trường, sinh học MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN Trung bình xuống Thấp vì Dễ ảnh hưởng giao tiếp xã hội nếu kéo dài KHẢ NĂNG PHỤC HỔI NẾU CAN THIỆP ĐÚNG Cao nếu can thiệp ngôn ngữ đúng thời điểm

+ Rối loạn Tăng động giảm chú ý (ADHD) BẢN CHẤT Rối loạn kiểm soát hành vi, chú ý, điều tiết cảm xúc MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN Trung bình đến Cao vì Dễ ảnh hưởng học hành, xã hội, dễ bị hiểu lầm KHẢ NĂNG PHỤC HỔI NẾU CAN THIỆP ĐÚNG Cao nếu can thiệp sớm + có thể dùng thuốc hỗ trợ

+ Rối loạn Vấn đề tâm lý (lo âu, trầm cảm…) BẢN CHẤT Rối loạn cảm xúc, có thể là thứ phát hoặc nguyên phát MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN Cao nếu kéo dài vì Dễ dẫn đến rối loạn nhân cách, tự hủy hoại KHẢ NĂNG PHỤC HỔI NẾU CAN THIỆP ĐÚNG Cao nếu được hỗ trợ trị liệu tâm lý đúng cách

2. Cần hiểu điểm khác biệt trọng yếu giữa Tự kỷ và các Rối loạn khác

Dưới đây là bảng phân tích chi tiết và có hệ thống về sự khác biệt trọng yếu giữa rối loạn phổ tự kỷ (ASD) và các rối loạn phát triển/thần kinh-tâm lý khác thường gặp ở trẻ: chậm nói, rối loạn ngôn ngữ, tăng động giảm chú ý (ADHD), chậm phát triển trí tuệ (ID), rối loạn lo âu, và trầm cảm.

Tự kỷ (ASD – Autism Spectrum Disorder)

+ Giao tiếp xã hội: Thiếu giao tiếp bằng mắt, không chia sẻ cảm xúc, ít phản ứng với tên gọi, không chơi tương tác với người khác

+ Hành vi lặp đi lặp lại: Xoay đồ vật, xếp hàng đồ chơi, vỗ tay, nhảy chân liên tục

+ Ngôn ngữ: Có thể chậm nói hoặc nói lặp lại, dùng ngôn ngữ không đúng ngữ cảnh

+ Nhạy cảm giác: Nhạy cảm quá mức hoặc phản ứng kém với âm thanh, ánh sáng, đụng chạm

+ Khả năng trí tuệ: Phong phú: từ chậm trí đến trí tuệ bình thường hoặc cao

+ Khởi phát: Thường trước 3 tuổi

Chậm nói đơn thuần (Speech delay)

+ Giao tiếp xã hội: Bình thường trẻ vẫn giao tiếp mắt, chơi với người khác, hiểu được lời nói

+ Ngôn ngữ: Chậm nói so với mốc tuổi (ít từ, ghép câu muộn), phát âm không rõ

+ Hiểu ngôn ngữ: Có thể bình thường trẻ vẫn hiểu lời nói tốt nhưng không nói được

+ Hành vi khác: Không có hành vi rập khuôn như tự kỷ

+ Nguyên nhân: Do môi trường, nghe kém, hoặc phát triển cá nhân chậm

P/s: Phân biệt với tự kỷ: Trẻ chậm nói vẫn có nhu cầu giao tiếp, có ánh mắt tương tác, không có hành vi rập khuôn.

Rối loạn ngôn ngữ (Language disorder)

+ Ngôn ngữ biểu đạt và/hoặc tiếp nhận: Trẻ gặp khó khăn trong việc tạo câu, dùng từ đúng, hiểu ngữ nghĩa, ngữ pháp

+ Giao tiếp xã hội: Có thể bình thường – trẻ hiểu cách chơi, tương tác

+ Hành vi khác: Không có hành vi lặp lại hoặc các đặc điểm cảm giác như trong tự kỷ

+ Nguyên nhân: Rối loạn phát triển ngôn ngữ đặc hiệu (SLI), di truyền, chấn thương thần kinh

P/s: Phân biệt với tự kỷ: Trẻ có rối loạn ngôn ngữ thường hiểu giao tiếp xã hội và muốn tương tác, khác với trẻ tự kỷ thường thiếu quan tâm đến người khác.

Tăng động giảm chú ý (ADHD)

+ Chú ý và hành vi: Không tập trung, dễ xao nhãng, không ngồi yên, hành động bốc đồng

+ Giao tiếp xã hội: Có thể nói nhiều, thích giao tiếp nhưng gặp khó khăn kiểm soát hành vi trong giao tiếp

+ Ngôn ngữ: Thường không chậm, thậm chí nói nhiều, ngắt lời

+ Hành vi khác: Không có hành vi rập khuôn hoặc các đặc điểm cảm giác đặc hiệu

+ Khởi phát: Trước 12 tuổi

P/s: Phân biệt với tự kỷ: ADHD muốn tương tác nhưng không kiểm soát tốt hành vi. Tự kỷ thiếu mong muốn tương tác, có hành vi lặp lại và nhạy cảm giác.

Chậm phát triển trí tuệ (Intellectual Disability – ID)

+ Chỉ số IQ: Thấp hơn mức trung bình (<70)

+ Phát triển toàn diện: Chậm về cả ngôn ngữ, vận động, xã hội, học tập

+ Giao tiếp xã hội: Có thể tương tác, nhưng kém hiệu quả do năng lực trí tuệ thấp

+ Ngôn ngữ: Chậm hoặc rối loạn tùy theo mức độ IQ

+ Hành vi: Có thể có hành vi lặp lại nhưng không mang tính chất đặc hiệu như tự kỷ

P/s: Phân biệt với tự kỷ: Trẻ ID thiếu khả năng do trí tuệ thấp, nhưng không đặc biệt thiếu quan tâm xã hội như trẻ tự kỷ.

Lo âu (Anxiety disorders)

+ Cảm xúc: Lo lắng, căng thẳng quá mức, né tránh tình huống xã hội

+ Giao tiếp xã hội: Có thể tốt, nhưng bị ức chế bởi lo âu

+ Ngôn ngữ: Phát triển bình thường hoặc tốt

+ Hành vi: Không lặp đi lặp lại, nhưng có thể tránh né xã hội giống tự kỷ nhẹ

+ Khởi phát: Có thể ở trẻ nhỏ hoặc lớn hơn

P/s: Phân biệt với tự kỷ: Trẻ lo âu muốn giao tiếp nhưng sợ; trẻ tự kỷ không có nhu cầu hoặc không hiểu cách giao tiếp.

Trầm cảm ở trẻ

+ Tâm trạng: Buồn, dễ khóc, ít hứng thú, mệt mỏi, rút lui xã hội

+ Giao tiếp xã hội: Giảm giao tiếp do mất hứng thú, không do khiếm khuyết bẩm sinh như trong tự kỷ

+ Ngôn ngữ: Bình thường, nhưng có thể ít nói vì mệt mỏi, buồn

+ Hành vi: Không có hành vi lặp lại hoặc nhạy cảm giác đặc hiệu

P/s: Phân biệt với tự kỷ: Trầm cảm là rối loạn mắc phải, xuất hiện sau giai đoạn phát triển bình thường; tự kỷ là rối loạn bẩm sinh từ sớm.

Đây là một so sánh rất sâu sắc và cần thiết, giúp cha mẹ hiểu rằng mỗi loại rối loạn có “độ khó” riêng, nhưng không phải đứa trẻ nào cũng khó dạy như nhau, và không phải con trẻ nào cũng mất cơ hội phục hồi. Vấn đề cần là cha mẹ phải tỉnh táo để nhận diện đúng nơi, đúng người giúp con và nhẫn nại cùng con đến cùng.

1. Trẻ Rối loạn phổ tự kỷ (ASD)

+ Độ khó: Cao nhất, vì ảnh hưởng đa chiều (từ cảm giác, giao tiếp, hành vi đến nhận thức).

+ Tính phức tạp: Không có phương pháp “chữa khỏi”, chỉ có thể hòa nhập dần thông qua trị liệu sớm – mạnh – cá nhân hóa.

+ Sai lầm phổ biến: Cha mẹ nghĩ “con chậm nói thôi”, hoặc “con nhút nhát”, dẫn đến can thiệp quá muộn hoặc không thể chữa được đâu nên chấp nhận nuôi con cả đời thôi. Đây chính là sai lầm khiến con không thể phục hồi những phần có thể phục hồi thậm chí biến chứng sang nhiều các vấn đề khác khiến con, cha mẹ bất ổn cả đời. Vì nó không đơn thuần con chỉ là vậy khi mà tính cách, tâm lý, cảm xúc, hành vi của con sẽ còn nhiều các biến chứng khác từ tự kỷ.

+ Mục tiêu : Con cần tự lập các vấn đề cho chính con, trong gia đình….và tiến hơn nữa là sự phát triển nghể nghiệp ( nếu con thuộc tự kỷ thông minh) mà không phụ thuộc bố mẹ và không bị biến chứng sang các vấn đề bất ổn khác nặng nề hơn

+ Lời khuyên: Hãy nhớ rằng con tự kỷ thì cũng có nhiều phần giúp được con để con có cơ hội như đứa trẻ thông thường khác. Chúng ta chỉ cần nhẫn nại, quyết tâm để con có cơ hội đó mà thôi

2. Trẻ Chậm phát triển trí tuệ (GDD/ID)

+ Độ khó: Cao nếu trẻ ở mức độ nặng, nhưng dễ tiên lượng hơn ASD

+ Khác biệt so với tự kỷ: Các con vẫn có nhu cầu kết nối xã hội, chỉ là khó tiếp thu học thuật và kỹ năng

+ Sai lầm phổ biến: Cho học chương trình bình thường nhưng gò ép trẻ trong kỳ vọng thành tích cao như con trẻ bình thường nên con trẻ bị bào mòn lòng tự trọng thậm chí gây tắc năng lực tự phát triển khác

+ Mục tiêu : Con cần tự lập các vấn đề cho chính con, trong gia đình….và tiến hơn nữa là có nghề để nuôi sống bản thân mà không phụ thuộc bố mẹ và không bị biến chứng sang các vấn đề bất ổn khác nặng nề hơn

+ Lời khuyên: Không đặt mục tiêu “bình thường hóa” mà là phát triển tối đa khả năng cá nhân. Ưu tiên dạy kỹ năng sống, kỹ năng mềm và thế mạnh năng khiếu hơn chữ số

3. Trẻ Tăng động giảm chú ý (ADHD)

+ Độ khó: Trung bình, nhưng cần kỷ luật can thiệp ổn định

+ Tính phức tạp: Thường bị nhầm là nghịch, thiếu dạy bảo nên dễ tổn thương lòng tự trọng

+ Cản trở lớn: Khó kiểm soát hành vi → ảnh hưởng học tập và xã hội

+ Sai lầm phổ biến: Do con vẫn có tư duy, có tương tác, có thể học tập vẫn tốt nên cha mẹ chủ quan việc con chỉ nghịch ngợm, quậy phá từ đó can thiệp chỉ hành vi mà không phải trị liệu toàn diện hoặc cho rằng con lớn con tự thay đổi nên khiến con trẻ nặng hơn và sang các biến chứng rối loạn tâm lý, rối loạn tâm thần khác về hành vi, cảm xúc, chống đối, gây rối, tâm thần phân liệt…

+ Lời khuyên: Phải trị liệu toàn diện để không khiến cho ADHD biến chứng bất ổn về tâm thần, tâm lý, hành vi, cảm xúc, nhận thức….vì nếu sang biến chứng thì tương lai phát triển của trẻ sẽ dừng lại với sự bất ổn khôn lường

4. Trẻ Chậm nói (không kèm ASD/GDD)

+ Độ khó: thấp nhất trong nhóm này, đặc biệt nếu không có vấn đề nền

+ Tính phức tạp: thường đơn thuần do thiếu kích thích – môi trường nghèo ngôn ngữ

+ Sai lầm phổ biến: Chỉ can thiệp nói theo phương pháp sao chụp ngôn ngữ mà không trị liệu toàn diện hoặc chờ con lớn con tự biết nói nên nhiều con trẻ sau đó đã bị ngăn chặn các năng lực tự phát triển cả nhân mà chậm lại hoặc phát tác sang các bất ổn tâm lý khác

+ Lời khuyên: Đừng đợi “lên 3 sẽ nói” nếu đã 18–24 tháng không nói từ nào. Phải tìm test chuyên sâu tìm ra mọi ngóc ngách vấn đề và cần trị liệu toàn diện để con trẻ phát triển toàn diện nhằm ngăn chặn sớm các biến chứng khác.

5. Thông điệp gửi đến cha mẹ

+ Mức độ khó không phải do tên rối loạn – mà do thời điểm phát hiện và cách can thiệp.

+ Trẻ tự kỷ có thể hòa nhập, trẻ ADHD có thể học giỏi, trẻ chậm nói có thể thành người diễn thuyết – nếu can thiệp đúng và đủ.

+ Sự tỉnh táo của cha mẹ trong nhận diện – chấp nhận – đồng hành chính là “thuốc hồi phục” tốt nhất cho con.

II. GÓC NHÌN CỦA PHỤ HUYNH VỀ LIỆU PHÁP TRỊ LIỆU CỦA CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN

Chuyên gia Phạm Hiền không quan tâm quá nhiều đến các yếu tố nguyên nhân từ các phần cứng của con trẻ rối loạn phổ tự kỷ mà chuyên gia sẽ quan tâm cốt lõi đến truy tìm các nguyên nhân từng biểu hiện của con và có phác đồ trị liệu từng biểu hiện đó trong môi trường sống thực tế từ gia đình, trường học, bên ngoài cuộc sống.

Chuyên gia thường hay khuyến cáo các phụ huynh rằng ” Thay bằng cứ khắc khoải truy tìm Gen hay các vấn đề cứng khác xong cũng chỉ để mua sự nhìn nhận yên tâm nhưng vô tình lại bỏ qua tất cả các vấn đề khác lẽ ra đã có thể giúp con khá hơn thậm chí là phục hồi”.

Bởi với chuyên gia thì các con Rối loạn phổ tự kỷ thực sự ( không phải nhiều con bị nhầm lẫn khi chỉ là chậm phát triển trí tuệ hoặc chậm nói như hiện nay) sẽ vẫn có các vùng phục hồi rất tốt nên đừng lấy đi cơ hội đó của con. Đặc biệt với chuyên gia việc điều chỉnh môi trường sống đặc biệt kỹ thuật nuôi dạy các con đúng, đủ những gì con cần trong cuộc sống của chỉnh con mới là đích đến đúng nhất cho các con.

Đúng vậy, trong nhiều năm nay cách tiếp cận chẩn đoán của chuyên gia Phạm Hiền thể hiện một tư duy rất thực tế và mang tính can thiệp cá nhân hóa cao toàn diện

Đó là không đặt trọng tâm quá nhiều vào nguyên nhân gen, hệ thần kinh… (thứ vốn không thể thay đổi), mà chú trọng vào việc phân tích cụ thể từng biểu hiện, hành vi, cảm xúc….. để truy nguyên nhân cốt lõi phía sau của từng biểu hiện đó nhằm can thiệp, trị liệu đúng đích mà con cần tự lập trong tư duy nhận thức, trong cảm xúc, trong các hoạt động hành vi….để tự sinh tồn trong cuộc sống. Từ quan điểm và trị liệu theo hướng này nhiều năm nay đã có rất nhiều con rối loạn tự kỷ được chữa lành những phần .

Mặc dù để trị liệu các con diện này rất khó và nó đòi hỏi mất nhiều nỗ lực về thời gian, công sức…của cả cha mẹ và nơi can thiệp, trị liệu nhưng với quan điểm của chuyên gia thì ” Con trẻ phát triển bình thường cũng phải dạy và nhắc nhở chúng cả chục lần thì các con Rối loạn phổ tự kỷ phải cấp số nhân vài lần nhưng nếu kiến trì bền bỉ bám đuổi vào các phần mà con trẻ có thể phục hồi thì chắc chắn có sẽ có ở mức con tự lập thậm chí nhiều con còn ở mức tốt hơn các bạn phát triển thông thường khác.

Chuyên gia không chẩn đoán và đưa phác đồ can thiệp trẻ tự kỷ kiểu đơn lẻ giới hạn mà luôn chẩn đoán toàn diện năng lực GỐC cần phát triển của một đứa trẻ trong đó là khiếm khuyết của con, từ đó chuyên gia sẽ đưa phác đồ trị liệu toàn diện GỐC để kích hoạt tất cả các vùng là điểm mạnh của con, vùng có cơ hội phục hồi cao và khá để làm nền móng tự phục hồi GỐC từ đó có cơ sở cao để kích hoạt trị liệu các vùng khó cũng có cơ hội phục hồi trong đích đến con có thể tự mình làm được mà không cần tốt hay giỏi.

Với chuyên gia thì nên trị liệu toàn diện cho con Từ Tư duy/Tính cách/Tâm lý/Cảm xúc/Hành vi/Kỹ năng và khả năng để dù con có không thể như các bạn thông thường thì con vẫn có cơ hội cao nhất với chính con.

Chính quan điêm này nên nhiều con bị chẩn đoán nhầm lẫn, bị chẩn đoán sai tự kỷ đã được hồi phục như các con trẻ bình thường khác. Bởi với chuyên gia ” Không giới hạn để không bỏ sót bất kỳ cơ hội nào cho con trẻ và đặc biệt không được bỏ sót vì nhầm lẫn trong chẩn đoán)

1. Chẩn đoán và trị liệu về năng lực tư duy nhận thức

“Tôi đã được chuyên gia Phạm Hiền cho biết thế nào là năng lực tư duy của đứa trẻ và từng ngóc ngách đó con tôi không có khả năng gì, có thể phục hồi những gì để giúp con có khả năng tự có cơ chế phục hồi tự nhiên để con tự lớn dần lên theo năm tháng. Con đã được trị liệu theo hướng đó và nhận thức của con đã tăng dần lên theo từng giai đoạn…”

+ Chuyên gia không quá quan tâm Gen hay hệ thần kinh hoặc các phần cứng khác (Trừ các con đã đi khám bệnh viện và đã có hồ sơ rõ nét trong khiếm khuyết này thì sẽ là kênh tham khảo để đánh giá mức độ phục hồi nào không thể và vấn đề nào vẫn có thể) mà chẩn đoán đi chi tiết từng ngóc ngách mạch tư duy của năng lực tư duy để tìm ra được vấn đề nào có thể giúp con phục hồi theo từng mức độ. Đặc biệt các con đến trong giai đoạn từ trước 3,5 tuổi thường chuyên gia sẽ đưa ra rất chi tiết và cụ thể từng vấn đề tư duy nhận thức bị khiếm khuyết hiện tại do đâu và cơ hội phục hồi thường ở mức rất khả quan.

+ Chuyên gia không bao giờ chẩn đoán và đưa phác đồ điều trị giới hạn tư duy của con là một đứa trẻ rối loạn phổ tự kỷ rồi nên phải chấp nhận thôi hoặc không thể đâu hoặc khó đấy mà sẽ phân loại ngóc ngách từng mạch tư duy nhận thức để đưa ra phác đồ rõ nét trị liệu từng phần theo mức độ nâng cấp tăng dần khi con đạt dần các mốc phục hồi. Đương nhiên sẽ là chẩn đoán và trị liệu chi tiết từ Mạch tư duy Nguồn vào của não bộ ( Tập trung Cảm giác, cảm nhận, nghe, quan sát…) -> Mạch tư duy Nguồn trong của não bộ ( Logic, hiểu, lập luận, lý lẽ, chính kiến….-> Mạch tư duy nguồn ra của não bộ ( Tư duy tự nhận thức được khi được dạy, Tư duy tự nhận thức từ môi trường thế giới quan, Tư duy xử lý tình huống…)

+ Chuyên gia tìm ra năng lực não bộ của con trẻ có thuộc chậm trí tuệ không để trị liệu tư duy từ màu sắc của con là trí tuệ chậm ( Trị liệu mạch tư duy nhận thức) hoặc nếu con thuộc Tự kỷ thông minh chuyên gia sẽ có phác đồ khác để kích hoạt trí thông minh của con từ dập khuôn, lặp lại sang các mạch tư duy đa dạng mở rộng gồm cả mạch tư duy chỉ khi được dạy và mạch tư duy xã hội đa dạng. Từ đó con trẻ luôn được trị liệu và phát triển năng lực não bộ với năng lực tư duy tự nhận thức mở rộng đa dạng ( Trị liệu mạch tư duy mở rộng toàn diện và Trị liệu tư duy tự nhận thức để học hỏi ứng dụng từ môi trường sống để phát triển tư duy xã hội đa dạng)

Ps: Phản hồi của phụ huynh rằng Chuyên gia Phạm Hiền sẽ không bao giờ giới hạn hay huyễn hoặc phụ huynh để gây mất cơ hội phục hồi tư duy cho con nên thường sẽ cảnh báo rất thẳng thắn

+ Chuyên gia thường cảnh báo sai lầm khi phụ huynh can thiệp cho con trẻ tự kỷ là biến con thành con vẹt chỉ học cách ghi nhớ sao chụp lặp lại mà không trị liệu kích hoạt từng chút một năng lực tư duy suy nghĩ của con. Với chuyên gia thì nó vô cùng khó nhưng tất cả cha mẹ hay nhà chuyên môn phải nỗ lực vì cơ hội tốt nhất cho con.

+ Bởi đây mới là vùng nền tảng Gốc quyết định cơ hội và mức độ con phục hồi, đặc biệt các con trước 3,5 tuổi thì đây vẫn là vùng vàng cao nhất để cho con cơ hội cao nhất không chỉ vấn đề tư duy mà cho tất cả các vùng các cũng từ đây mà có cơ hội theo.).

+ Ngoài ra câu nói chắc nịch của chuyên gia với các cha mẹ có con thuộc diện Tự kỷ thông minh hay Tự kỷ không thông minh sẽ luôn là ” Tôi không biết các bố mẹ muốn gì ở các con, cao siêu kiểu thiên tài hay là đứa trẻ hết thuốc chữa. Nhưng với tôi người tiếp cận quá nhiều các sai lầm của các cha mẹ thì tôi thực sự muốn bất kỳ con Tự kỷ thuộc diện nào thì cái con cần là sự tự tư duy được dù yếu hay tốt, chậm hay nhanh thì nó vẫn là của con để con có khả năng tự phát triển tiếp theo thay bằng hoàn toàn bị phụ thuộc vào bố mẹ hay nhà chuyên môn…”

+ Chuyên gia luôn chứng minh cho phụ huynh biết tại sao con trẻ sau khi nhận thức khá hơn thì đến các ngưỡng tiếp theo đặc biệt từ 8 tuổi trở ra thì con trẻ không thể tự khắc phục, tự phát triển hơn thậm chí thoái lui nếu tính theo độ tuổi của con. Bởi vì con mãi mãi không có năng lực tự lớn lên từ tự tư duy nhận thức

2. Chẩn đoán và trị liệu năng lực Cảm xúc/ Cảm nhận/Cảm giác

“Con tôi đã hét suốt ngày, đêm trong 3 năm đến mức cả gia đình tôi khổ sở. Bản thân tôi và chồng phải uống thuốc an thần rất nhiều. Có lúc chồng tôi áp lực đến mức tự thu lại trong một phòng và chỉ ngồi vô thức để uống cả két bia đến say mềm nhằm trốn khỏi sự ám ảnh tiếng hét của con. Nhưng khi con được trị liệu các ngách tư duy nhận thức để từ đó con có cảm nhận được thế giới quan xung quanh, cảm nhận được nên không nên và con điều chỉnh được bản thân. Khi con hết la hét cả nhà thực sự mới được sống”

+ Với chuyên gia thì con người phải có cảm giác, phải cảm nhận được để bộc lộ được cảm xúc và con trong diện này càng cần phải giúp con vùng này ở mức ưu tiên vàng vì nó là Gốc quan trọng không kém vùng tư duy nhận thức để cho con có cơ hội tự phát triển khả năng tự phục hồi trong từng độ tuổi. Quan điểm của chuyên gia rất rõ ràng đây là vùng Gốc Cốt lõi quan trọng nhất song song với vùng Tư duy nhận thức nên nếu Vùng này không có thì trị liệu kích hoạt vùng tư duy nhận thức chỉ là mang muối bỏ biến mà thôi. Nhưng phải là cách để trị liệu toàn diện đúng từ môi trường sống thực tế chứ không phải như can thiệp hành vi hiện nay.

+ Với con bị rối loạn tự kỷ thì đây là vùng khó nhưng lại không quá khó nếu đi đúng hướng sớm tỉ mỉ với nó ( đặc biệt với các con trước 3,5 tuổi ). Khi có con cảm giác tốt, cảm nhận tốt, bộc lộ cảm xúc tốt con sẽ có khả năng để con tự có nhu cầu muốn biết các hoạt động xung quanh môi trường sống, môi trường thiên nhiên mọi lúc, mọi nơi…. từ đó cho con tự có khả năng Tự Kích hoạt mạnh mẽ nhất học hỏi và ứng dụng.

Ps: Chuyên gia hay cảnh báo các phụ huynh thường không chú trọng vùng vàng này thậm chí bỏ qua một cách đáng tiếc hết năm này sang năm khác vì chấp nhận con không thể.

+ Đây chính là nguyên nhân con can thiệp từ 18 tháng đến 18 tuổi vẫn chẳng có gì thậm chí sang các biến chứng rối loạn tâm thần khác nặng hơn.

+ Với chuyên gia người lớn thử thiếu cảm giác, không có cảm nhận, vô cảm với cảm xúc, mất kiểm soát với cảm xúc thì thử xem có tự phát triển được mình tốt và đúng không. Trong khi cái khiếm khuyết lớn nhất là Bởi con vốn dĩ vô thức hoàn toàn với thế giới quan, con vô thức hoàn toàn với chính con thì nếu không giúp con cái cốt lõi này sao con có nhu cầu muốn biết và càng sao biết tự điểu chỉnh bản thân nên không biến chứng lộn xộn mới là lạ.

+ Nếu chỉ can thiệp phi thực tế ứng dụng cuộc sống như thực tế hiện nay mà các phụ huynh đang áp dụng thì chắc chắn vùng này sẽ bị tổn thương cao hơn thậm chí bị đóng băng hoàn toàn và gây đóng băng tư duy nhận thức, từ đó gây khó khăn thậm chí đóng băng các vùng lẽ ra phải dễ phục hồi khác.

3. Chẩn đoán và trị liệu năng lực ngôn ngữ, giao tiếp

“Tôi đã mắc sai lầm trong can thiệp cho con chỉ chú trọng bật âm và nói từ đó làm mất đi năng lực tự giao tiếp cư xử do con đã bị biến thành con vẹt. Tôi đã hiểu được nói khác, giao tiếp khác và đứa trẻ giao tiếp được chủ động thì nó phải có cái đầu chủ động. Tôi và con đang hành trình trị liệu từ gốc lại, dù khó vì con đã 9 tuổi nhưng con đang có sự tiến triển dù chậm tôi cũng đi đến cùng với con”

+ Chuyên gia sẽ chẩn đoán và đưa phác đồ trị liệu ngôn ngữ không đơn lẻ chỉ là nói được mà là Tư duy ngôn ngữ toàn diện từ các cấp độ từ thấp đến cao dần để con đạt đến các giao tiếp cư xử: Tư duy Nghe ( Tập trung, Cảm nhận, hiểu vấn đề trong giao tiếp) -> Tư duy nói ( Hiểu cần nói, Diễn đạt ý hiểu, trình bày vấn đề) -> Giao tiếp đối thoại ( Tư duy diễn đạt trình bày, tư duy phân tích, tư duy lí lẽ, tư duy đón đầu cuộc nói chuyện) -> Tư duy xử lý tình huống và vấn đề băng lời nói -> Kỹ năng giao tiếp cư xử và kỹ năng nói khác nơi trường lớp, trong cuộc sống . Chuyên gi đưa phác đồ trị liệu tỉ mỉ từ Giao tiếp bằng lời (ngôn ngữ nói) đến Giao tiếp không lời (ánh mắt, cử chỉ, nét mặt) cần đạt đến một cách hài hòa cao nhất của đứa trẻ phát triển thông thường thay bằng được cái này thì lại không có cái kia khiến con bị khác biệt.

+ Chuyên gia tâm lý Phạm Hiền thường nói “Ngôn ngữ không phải chỉ là con biết nói” mà ngôn ngữ phải là ” Con biết giao tiếp và cư xử” nên không thể cứ mải miết chẩn đoán, can thiệp đơn lẻ chỉ cần con bật âm, chỉ cần con nói ra từ miệng mà bỏ qua trị liệu toàn diện tư duy để con có khả năng tự tư duy học hỏi giao tiếp từ môi trường sống và tự tư duy chủ động để nghĩ ra bản thân nghe được gì, nhìn thấy gì, biết gì, cảm nhận được gì mà tư tư duy ra nội dung mình cần nói một cách chủ động.

Ps: Chuyên gia cho biết sự bất ổn hiện nay với các nơi và cha mẹ chỉ cần chú trọng vào nói được là được mà không cần quan tâm cách trị liệu như hiện nay đang khiến con chỉ là nói nhưng vô thức trong nói hoặc vô thức trong khả năng diễn đạt trình bày và giao tiếp tương lai.

+ Chuyên gia luôn thay đổi quan điểm của phụ huynh đi theo hướng chậm có chủ đích để chắc Gốc cho con được trị liệu phục hồi toàn diện ngôn ngữ chứ không phải chỉ cần con nói theo cách can thiệp hiện nay khiến con như một con vẹt vận hành theo chỉ đạo hoặc vô thức và đặc biệt bị đóng băng năng lực tư duy tự nhận thức từ đó đóng băng tư duy ngôn ngữ và khả năng giao tiếp cư xử chủ động trong tương lai các độ tuổi tiếp theo.

+ Con biết nói nhưng mãi chẳng thể ghép được câu vì không thể có khả năng tư duy hay ghi nhớ mở rộng, con nói câu những mãi vẫn chẳng thể kể lại hoặc diễn đạt một vấn đề hay một câu chuyện vì con có nghĩ chủ động để logic được đâu mà diễn đạt hay giao tiếp chủ động. Mặc dù trị liệu theo phác đồ chuyên gia con sẽ nói chậm hơn nhưng con sẽ có gốc từ tư duy để nói chứ không phải mớm lời hay nhại lại vô thức.

+ Chuyên gia luôn chứng minh cho phụ huynh biết tại sao con trẻ sau khi nói được thì đến các ngưỡng tiếp theo con không thể phát triển thêm ngôn ngữ và giao tiếp từ chính năng lực tư duy bị hỏng của con.

4. Chẩn đoán và trị liệu Tính cách/ hợp tác

“Tôi đã sai lầm khi tạo ra đứa con đòi hỏi vượt ngưỡng. Đến bây giờ gần như gia đình bất lực vì con đã 12 tuổi và nó quá khỏe, nó du và thậm chí đánh cả bố mẹ, ông bà”

+ Chuyên gia thường cho phụ huynh biết tại sao cần trị liệu Tính cách của con trẻ vì đây là một tác nhân gây rào cản rất lớn đến sự hợp tác để can thiệp, trị liệu và đặc biêt các con trẻ cần có sự ôn hòa nhất định để hợp tác với cha mẹ từ đó cha mẹ có thể dạy được con rất nhiều.

+ Với chuyên gia thì không có chuyên gia hay nhà chuyên môn nào có thể giúp con phục hồi nhanh và đa dạng thực tế được bằng các cha mẹ. Bởi đứa con này nó cần sự tiếp cận, cần sự gắn kết để làm được, để tự lập được từ đó tự sinh tồn trong gia đình, trường học, xã hội và cha mẹ chúng mới là những người thầy, những chuyên gia và thậm chí là bác sỹ của con. Nhưng bởi sự nuôi dạy kiểu bù đắp vì con thiệt thòi nên phục vụ con từ đó tạo ra rất nhiều các tính cách bất ổn của sự đòi hỏi, của lì bướng chống đối, của bất hợp tác từ đó cha mẹ không thể truyền tải hay dạy được gì cho con trong cuộc sống thường ngày.

+ Thậm chí chính tính cách bất ổn là tiền đề để con trẻ mất kiểm soát về cảm xúc nên càng ảnh hưởng đến hệ thần kinh, đến tâm lý đứa trẻ từ đó ảnh hưởng đến sự phục hồi của rất nhiều các vùng khác, thậm chí gây chệch hướng, gây nặng hơn mà cha mẹ và kể cả nhiều nhà chuyên môn không nhận ra. Khi nền tảng tính cách bất ổn và sự không hơp tác ngay khi con còn ít tuổi thì nó sẽ tiếp tục mạnh mẽ hơn trong các độ tuổi tiếp theo và từ đó tiếp tục ảnh hưởng đến sự tự nguyện tiếp thu của con trẻ, hay nói cách khác con trẻ sẽ phản kháng lại các tiếp thu và nhận thức trong sự vô thức chỉ theo ý vô thức của chúng. Từ đó đương nhiên nó ảnh hưởng đến co hội được phục hồi và phát triển tiếp theo của con trẻ.

Ps: Chuyên gia luôn cảnh báo các cha mẹ cẩn trọng trong nuôi dạy con tự kỷ để không cho con thêm nỗi khổ về tính cách bất ổn trong sự đòi hỏi hoặc không hợp tác một cách vô thức

+ Không chiều chuộng kiểu phục vụ con và chẳng cho con làm gì vì nó sẽ phát triển cho con thói quen ỉ lại, dựa dẫm cao độ từ đó khiến con chẳng muốn nhúc nhích quan tâm để ý ai làm gì. Ngoài ra, bản thân con không phải làm gì thì đương nhiên khó để não bộ con được vận động từ đó giảm đi sự lẽ ra phải chắt chiu cơ hội này cho con thì con sẽ có tư duy, cảm giác, cảm nhận, hành vi tốt dần lên..

+ Không chiều con kiểu đáp ứng mọi thứ thừa thãi hoặc con đòi là phải có vì nó sẽ phát triển thói quen đòi hỏi đến cùng để rồi mỗi lần đòi là mỗi lần cảm xúc bất ổn, mỗi lần chưa được là thần kinh con lại căng ra để đạt đến. Nó cho con sự mất kiểm soát cảm xúc, hành vi ngày vàng vượt ngưỡng hơn thì đương nhiên sự bất hợp tác sẽ ngày càng cao hơn

+ Có rất nhiều các vấn đề khác trong tính cách, trong bất hợp tác mà vô tình từ tình thương con, vô tình từ sự hiểu sai can thiệp con trẻ tự kỷ phải có chuyên môn mà cha mẹ tự giới hạn mình lại nên tạo nhiều các bất ổn ngoài đặc thù cơ chế hội chứng của con hoặc khiến các cơ chế hội chứng của con có cơ hội phát tác mạnh mẽ và nhanh hơn.

5. Chẩn đoán và trị liệu Hành vi/Kỷ luật cá nhân

“Tôi đã nghĩ rằng con thích hoạt động hành vi có nghĩa là thế mạnh của con nên để con tự do thoải mái nhất. Khi đến chuyên gia tôi mới biết tại sao từ 8 tuổi trở ra con tôi luôn không thể ngồi được và luôn gây rối khắp mọi nơi cho đến bây giờ là 13 tuổi và hành vi của nó còn kinh khủng hơn rất nhiều?

+ Trị liệu hành vi cho con trẻ không phải chỉ là các hành vi lặp lại mà con đang hiện hữu không quá khó bởi chỉ qua các bước chuyển hành vi khác thành thói quen. Tuy nhiên không thể chủ quan để bỏ qua cho nó có cơ hội thành thói quen lâu dài khó bỏ.

+ Nhưng vấn đề nghiêm trong hơn hành vi lặp lại mà Chuyên gia thường cảnh báo đến các cha mẹ . Đó là các cha mẹ đã quá sai lầm khi có quan điểm để con phát triển tự do từ đó tìm ra điểm mạnh, điểm thiên tài của chúng. Bởi vì khi được tự do thì hầu hết con trẻ sẽ phát tác rất nhiều các hành vi bất ổn, đó sẽ là nỗi khổ tiếp theo của con khi mà hành vi con sẽ ngày càng bất ổn thì con sẽ càng bị xa lánh, kỳ thị cao hơn thậm chí gây xung đột và mất an toàn cho bản thân cao hơn. Các con thường khó để có thể có được các hành vi đúng một cách dễ dàng, thậm chí để có nguyên tắc thì càng khó. Nhưng đó là vấn đề bắt buộc phải trị liệu vì nó sẽ giúp con được an toàn trong cả không gây nguy hiểm và an toàn không sang các ngưỡng rối loạn hành vi, rối loạn gây rối…

+ Với chuyên gia trị liệu hành vi cũng phải đi từ tư duy nhận thức, phải đi từ rèn kỷ luật cá nhân bền vững , phải song song với các cảm giác, cảm nhận, bộc lộ cảm xúc để con trẻ tự biết điều chỉnh hành vi của mình đúng mọi lúc, mọi nơi trong mọi tình huống chứ không phải theo cách chỉ chỉnh hành vi đơn lẻ như hiện nay. Bởi nếu không nỗ lực bền bỉ ráp đơn lẻ thành một hệ thống quá hoàn chỉnh hành vi đúng thì các rối loạn hành vi của con rất khó để ngắt bỏ.

Ps: Chuyên gia luôn cảnh báo cha mẹ đừng để con phát triển tự do mà hãy cố gắng nhất quán ngày nào cũng chú ý rèn con theo đích đến để con có đường lối con đi.

+ Chuyên gia luôn nói với các cha mẹ rằng chúng ta cứ nghĩ nó chẳng sao nhưng chính Hoạt động hành vi tự do thành thói quen thì con không thể hợp tác để học các hoạt động có nguyên tắc và quy luật cuộc sống. Thì đương nhiên con sẽ luôn là tâm điểm không mong muốn nơi trường lớp, môi trường bên ngoài từ đó khiến con bị tổn thương nhiều hơn từ ánh mắt, lời nói không hay của người khác.

+ Ở độ tuổi nhỏ thì việc điểu chỉnh hành vi rất dễ, nhưng thường các cha mẹ lại bị bỏ qua và phải đến khi con phát tác đến mức gây phiền toái thì mới vào cuộc nên nhiều con đã sang ngưỡng rối loạn hành vi vô thức đến mức khó để chữa.

6. Chẩn đoán và trị liệu Tự lập và các kỹ năng sống

“Con tôi là một đứa trẻ thuộc diện tự kỷ thông minh. Không ai nói cho tôi biết nên khi thấy con học tốt toán, tiếng anh tôi đã ra sức đầu tư cho con và con chỉ học giỏi thôi không phải làm gì. Cho đến khi con vào cấp 3 thì con không muốn đi học nữa, mỗi lần đi học là cực hình vì nó quẫy đủ kiểu, thậm chí doạ nạt..”.

+ Con chỉ học thôi không phải làm gì là một sai lầm nghiêm trọng của cha mẹ khiến các con bị giới hạn lại sự phục hồi toàn diện nhất gồm tư duy quan sát, cảm nhận, cảm giác, tính cách, âm lý, cảm xúc, đặc biệt kỹ năg làm và kỹ năng xử lý tình huống. Với các con phát triển thông thường nếu nuôi dạy theo cách này thì con cũng có các giới hạn huống gì các con tự kỷ vốn dĩ luôn phải cầm ay chỉ việc một cách tỉ mỉ.

+ Bộ não của con cứ cho là có thiên bẩm về học thuật nhưng cuộc đời của con thì khả năng thích nghi, khả năng tương tác và khả năng tự sinh tồn mới là điều mong muốn nhất. Bởi con phải được dạy thì mới biết chứ không phải đến tuổi lớn lên con tự khắc sẽ biết. Nên nếu không phải làm gì thì đã mất đi cơ hội được thực hành và trải nghiệm kỹ năng sống trong đời sống thực tế.

Ps: Với chuyên gia thì hãy biến sự dập khuôn và lặp lại hành vi của con trẻ thành thế mạnh khi cho chúng tự lập làm việc và học các kỹ năng trong cuộc sống sớm.

+ Với các con dưới 4 tuổi là giai đoạn rất dễ để dạy vì con chưa phát triển cái tôi nên sẽ hợp tác hơn. Tuy nhiên rất đáng tiếc các cha mẹ lại cho rằng con còn nhỏ quá chẳng thể làm được hoặc con có biết cái gì đâu mà dạy nên vô tình con bị mất đi cơ hội để tạo gốc cho sự phát triển tất cả các vùng tiếp theo.

+ Chuyên gia luôn nói dạy con tự lập là can thiệp, trị lệu để dạy con làm được những việc phục vụ cho chính cá nhân con, can thiệp, trị liệu để dạy con làm những việc trong gia đình là sự trị liệu cốt lõi nhất, là sự trị liệu toàn diện nhất . Bởi vì khi con được dạy làm thì con được học cách nghe để biết và nghe để hiểu phải làm gì, làm như thế nào; Con làm trực tiếp có nghĩa là con được sờ vào, được vận hành tay chân thì đương nhiên cảm giác của con sẽ có sự phục hồi. Con làm sẽ được quan sát, được nghe, được tiếp xúc, được dạy nhận biết thì đương nhiên cảm xúc và cảm nhận của con cũng có cơ hội tiến triển; Đặc biệt các con vốn dĩ là đứa trẻ dập khuôn thậm chí lặp lại hành vi thì việc dạy con làm là giúp con vào cuộc vận hành các hành vi có nguyên tắc nên nhiều đứa trẻ này dập khuôn lặp lại có khi lại là thế mạnh với các con trẻ phát triển thông thường ở khả năng tự lập nếu như dạy con sớm mọi vấn đề cần làm trong cuộc sống theo từng độ tuổi… Đương nhiên các vấn đề này là nền tảng quan trong để con phát triển tư duy, ngôn ngữ, tính cách, tâm lý, kỹ năng tự lập và kỷ luật cá nhân rất tốt nhưng chẳng cần bố mẹ nó phải có chuyên môn thì tại sao cứ đi tìm cơ hội xa xôi trong khi vô tình lại lấy đi hết cơ hội phục hồi ngày dưới chân, ngay xunh quanh cuộc sống thực của con.

7. Chẩn đoán và trị liệu Tư duy Tương tác và kỹ năng xã hội

“Tôi hiểu Tư duy và kỹ năng tương tác xã hội là thứ xa xỉ nhất với những con trẻ tự kỷ. Nhưng với chuyên gia thì nó cũng giống như dạy con làm việc một cách tự lập vậy. Hãy can thiệp, trị liệu để dạy cho con từng cách tiếp cận thế giới quan, môi trường sống thực tế nhất từ thiên nhiên đến con người bằng cảm giác, bằng cảm nhận, bằng tâm lý tự tin, bằng tính cách ôn hòa.., sau đó là can thiệp, trị liệu để dạy con từng cách nhận diện người, từng tình huống gặp người và sau đó là từng cách chơi, từng cách nói, từng cách tự xử lý các vấn đề.. để dần dần con có gốc tự xóa bản thân ra khỏi lô cốt đóng của đứa trẻ tự kỷ. Chuyên gia nói với tôi rằng” Dù nó có khó như mò kim đáy biển” nhưng hãy nhớ chẳng có gì là không thể nếu nỗ lực và nhất quán đích đến đến cùng với từng ngày với con”

+ Nhiều cha mẹ cho rằng khó, cho rằng đó là khiếm khuyết của con phải chấp nhận nên họ cũng chấp nhận mà chỉ cần con bật âm, chỉ cần con nói ra được là được, con không có bạn chơi, con không tương tác với ai mà chỉ cần con gần gũi bố mẹ là được.

+ Tuy nhiên tương tác xã hội lại là một cú hích tuyệt vời để con trẻ phục hồ toàn diện về Tư duy/Cảm xúc/Cảm nhân/ Giao tiếp/ Cư xử/Đón đầu tình huống và xử lý tình huống nhưng thường bị khó mà bỏ qua. Chính vì vậy nhiều con được phục hồi khá tốt ở các vùng khác nhưng vùng này không có thì các phát triển tiếp theo cũng khó để con tự cho cho chính con an toàn chứ chưa nói con có thể làm gì đó để tự sống.

Ps: Với chuyên gia thì “Ồ chỉ là học cách chơi thôi mà” nó không chơi giỏi, nó không chủ động thì chí ít chỉ cần con tham gia được chơi khi có người vận hành, có nhóm chơi để theo là được mà. Chí ít con nó không bị cô đơn, thậm chí không bị cô độc

+ Với các con trước 4 tuổi đến với chuyên gia thì hầu hết được chú trọng phục hồi vấn đề này song song với tư duy, ngôn ngữ và các vùng khác nên bản thân các con không bị khuyết tư duy và tương tác xã hội thậm chí trước 8 tuổi cũng luôn được cải thiện rất nhiều.

+ Chuyên gia Phạm Hiền luôn nói Để con trẻ có tương tác xã hội thì phải trị liệu cho con từ gốc về Tư duy tự nhận thức xã hội từ đó con sẽ có khả năng tự phát triển tương tác xã hội một cách tự nhiên nhất. Ngoài ra tương tác xã hội không phải chỉ là chơi, chỉ là nói chuyện với người khác mà còn rất nhiều các yếu tố, các kỹ năng con trẻ cần có để được an toàn nên các con được can thiệp, trị liệu mọi vấn đề liên quan đến tương tác xã hội từ trong gia đình, trường lớp, môi trường sống cộng đồng bên ngoài.

1. Phòng và ngăn chặn thậm chí đảo chiều cho con theo 3 trục lõi

+ PHÒNG (Giai đoạn 1–2): Can thiệp, trị liệu toàn diện Ngăn rối loạn hình thành hoặc tiến triển nặng hơn.

+ NGĂN (Giai đoạn 3–4): Can thiệp, trị liệu toàn diện Chặn đứng sự phát triển thêm của rối loạn và các biến chứng thứ phát.

+ ĐẢO CHIỀU (Giai đoạn 5–6): Can thiệp, trị liệu toàn diện tích cực để phục hồi, phát triển và chuyển hóa lâu dài.

GIAI ĐOẠN 1: NHẬN BIẾT SỚM – PHÒNG NGỪA CHỦ ĐỘNG

+ Mục tiêu: Phát hiện các dấu hiệu tiền rối loạn hoặc nguy cơ RLPTK từ 0–18 tháng.. Thiết lập nền tảng phát triển thần kinh ổn định.

+ Biểu hiện cần lưu ý: Không giao tiếp mắt ổn định. Ít hoặc không phản ứng với tên gọi. Không có cử chỉ chỉ trỏ, vẫy tay, lắc đầu. Không bập bẹ, không bắt chước âm thanh. Quá dễ bị kích thích hoặc ngược lại là “rất ngoan”, “lì”.

+ Hành động cụ thể: Đánh giá nguy cơ sớm với các chuyên gia phát triển (quan sát + bảng kiểm). Thiết lập môi trường giao tiếp giàu cảm xúc và tương tác. Can thiệp ngôn ngữ – vận động – cảm giác nhẹ nhàng tại nhà: Tăng trò chơi qua giao tiếp mắt, vận động thô, massage kích hoạt cảm giác.

GIAI ĐOẠN 2: XÁC ĐỊNH SỚM – ĐỊNH VỊ RỐI LOẠN

+ Mục tiêu: Phân loại đúng mức độ – nhóm khó khăn cốt lõi. Định hình được đường can thiệp cá nhân hóa trước 2,5 tuổi.

+ Biểu hiện rõ hơn: Không nói được từ đơn hoặc ngôn ngữ không có chức năng. Không chủ động tìm kiếm tương tác. Hành vi lặp lại (xếp đồ, quay vòng, xem quạt). Khó ngủ, rối loạn ăn uống, tăng nhạy cảm cảm giác.

+ Hành động cụ thể: Chẩn đoán toàn diện 5 vùng phát triển + tâm lý hành vi + phản xạ cảm giác. Lập bản đồ phát triển (developmental profile). Triển khai trị liệu tương tác chuyên sâu + can thiệp nhận thức nền + điều hòa cảm giác.

GIAI ĐOẠN 3: NGĂN BIẾN CHỨNG THỨ PHÁT – TRỊ LIỆU TĂNG CƯỜNG

+ Mục tiêu: Ngăn hình thành các biến chứng thứ phát như Lo âu xã hội, Tự kích thích trầm trọng, Rối loạn hành vi, mất kiểm soát cảm xúc, Cứng nhắc/ám ảnh lâu dài

+ Biểu hiện đáng lo: Bùng nổ cảm xúc khi thay đổi thói quen. Không kiểm soát hành vi khi bị từ chối. Thích ở một mình, không có nhu cầu chia sẻ. Hành vi kích thích: đập đầu, chạy vòng tròn, la hét.

+ Hành động cụ thể: Trị liệu hành vi cảm xúc (CBT phù hợp tuổi phát triển). Thiết kế lại môi trường học và chơi theo hướng hỗ trợ điều hòa thần kinh. Can thiệp song song cảm giác + vận động + trí tuệ cảm xúc.

GIAI ĐOẠN 4: CỦNG CỐ CHỨC NĂNG XÃ HỘI – TĂNG TRÍ NĂNG

+ Mục tiêu: Trẻ hòa nhập xã hội phù hợp với nhóm tuổi và năng lực cá nhân. Phát triển chức năng ngôn ngữ xã hội, điều hành nhận thức.

+ Dấu hiệu ở giai đoạn này: Có giao tiếp cơ bản nhưng thiếu chiều sâu cảm xúc. Còn khó hiểu ngữ cảnh xã hội (chơi không đúng luật, trò chuyện đơn phương). Trí nhớ lệch hướng (ghi nhớ chi tiết nhưng khó tổng hợp khái niệm).

+ Hành động cụ thể: Trị liệu ngôn ngữ nâng cao + kỹ năng xã hội theo nhóm nhỏ. Rèn kỹ năng chuyển tiếp, xử lý tình huống, giải quyết vấn đề. Huấn luyện nhận thức linh hoạt – lý thuyết tâm trí

GIAI ĐOẠN 5: ĐẢO CHIỀU VẤN ĐỀ – PHỤC HỒI NHẬN THỨC & TỰ CHỦ

+ Mục tiêu: Đảo chiều các điểm yếu thành vùng chức năng tiềm năng. Tái cấu trúc hệ thống xử lý thông tin nhận thức – xã hội – cảm xúc.

+ Biểu hiện khả quan: Trẻ đã có thể mô tả cảm xúc, chơi theo nhóm có quy tắc. Bắt đầu thể hiện sở thích, quan điểm cá nhân. Có thể học trong môi trường bán hòa nhập.

+ Hành động cụ thể: Chương trình can thiệp tích hợp theo chủ đề học thuật, cảm xúc và xã hội. Rèn luyện tư duy trừu tượng, biểu đạt ngôn ngữ nâng cao, hiểu ẩn dụ – sắc thái xã hội. Huấn luyện tư duy phản biện, lập kế hoạch, quản lý cảm xúc và hành vi.

GIAI ĐOẠN 6: TÁI THIẾT HỆ THỐNG CHỨC NĂNG – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

+ Mục tiêu: Trẻ có thể tự học, tự lập, thích nghi xã hội linh hoạt. Phát triển bản sắc cá nhân, mục tiêu sống, giá trị cá nhân.

+ Đặc điểm nổi bật: Có kỹ năng học tập chủ động. Tham gia sinh hoạt xã hội, học tập nhóm. Biết phản biện, có khả năng chọn lựa và điều chỉnh hành vi.

+ Hành động cụ thể: Kế hoạch phát triển cá nhân hóa (IDP) cho tuổi tiền dậy thì – dậy thì. Huấn luyện nghề nghiệp – định hướng tương lai. Đồng hành về tâm lý phát triển, mối quan hệ xã hội và giá trị sống.

P/s: Lời khuyên cho các cha mẹ có con ASD

+ Không phải cứ có dấu hiệu RLPTK là phải can thiệp nặng ngay . Hãy chẩn đoán và định vị đúng giai đoạn.

+ Càng phát hiện và can thiệp đúng thời điểm, càng đảo chiều hiệu quả.

+ Đừng để lỡ “giai đoạn vàng” 0– 3tuổi, nơi não bộ còn có tính dẻo thần kinh cao.

+ Luôn đi theo lộ trình cá nhân hóa, toàn diện và tích hợp – đừng can thiệp kiểu “mảnh rời”.

+ Hành trình này không phải đi chữa rối loạn, mà là đồng hành phục hồi và phát triển con người thực chất của con.

+ Nếu bạn cần mẫu kế hoạch chi tiết cho từng giai đoạn, hoặc mô hình đánh giá chuyên sâu từ giai đoạn nào đó của trẻ, mình có thể hỗ trợ lập bản sơ đồ theo từng độ tuổi cụ thể. Bạn có muốn không?

2. Các ca can thiệp thực tế – Trẻ bị chẩn đoán nhầm do phụ huynh chỉ tập trung xét nghiệm gen và phần cứng khác.

Bé gái 3,5 tuổi – “Tự kỷ bẩm sinh” do gen hay tổn thương gắn bó

+ Chẩn đoán ban đầu: Trẻ không giao tiếp mắt, không nói, chỉ lặp lại lời quảng cáo. Bố mẹ đưa đi xét nghiệm gen – kết luận nghi ngờ đột biến nhẹ gen

+ Sai lầm: Gia đình dừng các trị liệu hành vi, vì tin rằng tự kỷ do gen là “không chữa được”.

+ Đến khi gặp chuyên gia Phạm Hiền: Phân tích hành vi cho thấy con từng bị mẹ bỏ rơi đột ngột khi cai sữa, thay bằng bà chăm theo kiểu “tránh va chạm”. Trẻ bị đóng băng cảm xúc từ 10–18 tháng tuổi, mất niềm tin an toàn.

+ Can thiệp/Trị liệu: Sau 8 tuần trị liệu cảm xúc + giao tiếp cảm xúc mắt – xúc chạm – nhịp điệu: Trẻ bắt đầu giao tiếp mắt, gọi “mẹ”, dừng hành vi lặp lời.

P/s: Chuyên gia kết luận: không phải tự kỷ bẩm sinh, mà là tổn thương phát triển kiểu “câm giao tiếp cảm xúc” do thay đổi đột ngột người gắn bó và môi trường lạnh.

Bé trai 6 tuổi – Bị dán nhãn “tự kỷ nhẹ do di truyền” trong khi thực chất là lo âu xã hội + rối loạn tích hợp cảm giác

+ Chẩn đoán ban đầu: Trẻ không thích chơi với bạn, né tránh tiếp xúc xã hội. Có anh trai bị tự kỷ nên bố mẹ tin rằng bé “cũng thế”.

+ Đã làm xét nghiệm ADN – thấy “có nguy cơ di truyền” → gia đình chuyển con học giáo trình riêng.

+ Thực tế khi đánh giá chuyên sâu từ chuyên gia : Trẻ rất sợ tiếng ồn, cực nhạy mùi nên rối loạn tích hợp cảm giác chưa từng được can thiệp. Bị mẹ kiểm soát quá mức – ăn uống, vệ sinh, học – không được tự quyết nên lo âu xã hội cao, sợ sai, sợ mắc lỗi

+ Can thiệp/ Trị liệu: Trị liệu cảm giác + huấn luyện mẹ thay đổi cách tương tác (tôn trọng – tự lập – tạo khung an toàn). Sau 3 tháng, bé tự tin, kết bạn được, tham gia sinh hoạt nhóm.

P/s: Chuyên gia kết luận: Không phải tự kỷ – mà là trẻ có nhạy cảm thần kinh + lo âu + mô hình nuôi dưỡng sai.

Bé trai 9 tuổi – “Tự kỷ chức năng cao” nhưng thực chất là do sang chấn tâm lý + tổn thương lòng tự trọng

+ Biểu hiện: Trẻ ít nói, cực kỳ giỏi toán, nhớ siêu phàm nhưng né tránh giao tiếp, không chia sẻ với ai.

+ Bố mẹ từng xét nghiệm gen IQ cao, bác sĩ nghi tự kỷ thông minh → khuyên học riêng, không ép nói chuyện.

+ Gặp chuyên gia Phạm Hiền: Phân tích cho thấy trẻ từng bị cô giáo lớp 1 mắng công khai “khác thường”, bị bạn trêu chọc nên sang chấn nặng. Trẻ thu mình để phòng vệ, không dám thể hiện cảm xúc từ đó có “vỏ bọc tự kỷ chức năng cao”.

+ Can thiệp/Trị liệu: Sau 10 buổi trị liệu tái lập lại kết nối cảm xúc + huấn luyện bố mẹ hiểu con đúng + phục hồi vùng não liên quan đến biểu cảm xã hội Trẻ bắt đầu mở lòng, kể chuyện trường lớp, thậm chí tham gia sân khấu nhóm.

P/s: Chuyên gia Kết luận: Không phải tự kỷ bẩm sinh mà là vỏ bọc bảo vệ của một đứa trẻ từng bị xúc phạm nhưng không được chữa lành.

Dưới đây là tổng hợp những quan điểm và lời khuyên đặc trưng, sâu sắc của chuyên gia Phạm Hiền – được nhiều phụ huynh đồng hành đánh giá là giúp họ thức tỉnh, vượt qua khủng hoảng, và kiến tạo lại con đường phát triển cho con lẫn cho chính mình.

VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH LÀ CÁCH CHA MẸ PHẢI “CHỮA LÀNH” TRƯỚC KHI TRỊ LIỆU CHO CON

1. Thoát khỏi cái bẫy tư duy nguyên nhân – giải pháp cứng nhắc

+ Phụ huynh cứ mải miết tìm nguyên nhân do gen, do tiêm vắc xin, do não, do bố mẹ… nhưng điều ấy không giúp con thay đổi được gì. Chúng ta cần quay về thực tại: Con đang gặp khó khăn ở vùng nào – và cần gì để được phục hồi và phát triển?

+ Ngừng đuổi theo sự thật tuyệt đối về nguyên nhân mà nên Tập trung vào hành động thiết thực trong hiện tại.

+ Giải phóng bản thân khỏi ám ảnh “vì tôi mà con thế này” vì Không ai là nguyên nhân mà chỉ là điều kiện cần và đủ.

2. Đừng làm chuyên gia thay chuyên gia – Hãy là cha mẹ hiểu con nhất

+ Bạn không cần biết bao nhiêu tên gọi rối loạn. Bạn cần biết con bạn đang ‘cô đơn’ điều gì. Hãy là người chạm được vào thế giới bên trong con, thay vì cố sửa con theo nhãn bệnh.”

+ Không sa vào tự học chẩn đoán, lạm dụng kiến thức y học thiếu định hướng.

+ Nhưng cũng không trao trọn quyền cho chuyên gia rồi đứng ngoài.

+ Cần trở thành người hiểu – cảm – quan sát sâu sắc nhất con mình, từ đó hợp tác được với chuyên gia một cách thực chất.

3. Vượt qua kỳ vọng – Hòa bình với hình hài phát triển của con

+ Con không đến để giống ai. Con đến để sống đúng bản thể của con. Nếu bạn chỉ mong con trở lại ‘bình thường’ bạn đang vô tình chối bỏ chính con mình.

+ RLPTK không phải là “trở ngại phải loại bỏ”, mà là một kiểu phát triển cần đồng hành chuyển hóa.

+ Khi phụ huynh chấp nhận – yêu thương – cùng phát triển với con, thì chính con mới an toàn để phát triển.

LỜI KHUYÊN CHUYÊN SÂU VỀ TÂM LÝ, THÁI ĐỘ, CẢM XÚC CỦA PHỤ HUYNH

Điều chỉnh tâm lý “hoảng loạn – chữa gấp” sang “hiểu – phục hồi có lộ trình”

+ Rối loạn phổ tự kỷ không phải là chạy đua chống lại thời gian, mà là hành trình can thiệp có chiến lược.

+ Cần xác lập kỳ vọng đúng – mục tiêu ngắn và dài hạn nên cần Tránh lao vào các phương pháp “nhanh, mạnh, tốn kém mà không đúng trọng tâm”.

Giữ thái độ quan sát – kiên trì – linh hoạt

+ Thay vì hỏi ‘bao lâu con tiến bộ?’, hãy hỏi ‘hôm nay con có thay đổi nhỏ gì?’. Đó là tiến bộ thực sự.

+ Học cách tinh tế nhận ra sự phát triển vi mô: một ánh mắt, một tiếng gọi mẹ, một cử chỉ chủ động.

+ Thay đổi quan điểm từ “phục hồi toàn diện” sang “kích hoạt từng năng lực tiềm ẩn” – từng bước, từng giai đoạn.

Quản trị cảm xúc và kỳ vọng của chính mình

+ Chuyên gia thường yêu cầu cha mẹ đối mặt với cảm xúc tiêu cực: buồn, tức giận, tủi thân, xấu hổ từ đó để chuyển hóa thành tình yêu thực tế, lòng kiên nhẫn, trí tuệ cảm xúc.

+ Phụ huynh phải học cách: Không so sánh con mình với con người khác. Không gắn hạnh phúc của mình vào tốc độ tiến bộ của con. Không đổ lỗi cho bản thân hoặc người bạn đời

QUAN ĐIỂM ĐỊNH HÌNH CHIẾN LƯỢC TRỊ LIỆU THEO CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN

+ Mục tiêu trị liệu: Không chỉ là “trị liệu giảm triệu chứng” mà là phục hồi – phát triển – hòa nhập – trưởng thành có bản sắc

+ Phụ huynh: Không là khán giả – phải trở thành đồng đội phát triển chủ động của con

+ Cách trị liệu: Cá nhân hóa, tích hợp đa mô thức, theo giai đoạn và năng lực não bộ – tâm lý – cảm xúc

+ Giá trị sống: Dạy con tự kỷ không chỉ là trị liệu – mà là xây một con người biết sống đúng – sống có giá trị

LỜI NHẮN GỬI TỪ CHUYÊN GIA PHẠM HIỀN ĐẾN PHỤ HUYNH

+ Con bạn không phải là một ca bệnh. Con là một mầm sống có quyền được phát triển theo cách riêng. Nhưng để mầm ấy lớn lên, chính bạn – người mẹ, người cha – phải dám vượt qua chính mình.

+ Đừng cố biến con thành một ‘đứa trẻ bình thường’. Hãy giúp con trở thành phiên bản tốt nhất của chính con.”

1. Tâm sự của các cha mẹ khắc khoải đi từ thất vọng này đến thất vọng khác khi đi quá nhiều nơi để chẩn đoán và trị liệu.

Từ thất vọng này đến thất vọng khác..

“Tôi đã từng đi gần như mọi nơi mà người ta nói tốt cho trẻ tự kỷ – từ trung tâm nổi tiếng trong nước đến vài đợt đánh giá ở nước ngoài. Mỗi nơi một cách đánh giá, mỗi nơi một kết luận. Con tôi thì vẫn như vậy, có khi còn tệ hơn vì mệt mỏi và loạn trị liệu.”

Nhiều cha mẹ bắt đầu hành trình bằng sự hốt hoảng và niềm tin rằng có một nơi, một phương pháp sẽ “cứu con ngay lập tức” nhưng rồi hoang mang

+ Chỗ thì bảo con chỉ chậm nói, không tự kỷ đâu – yên tâm đi.

+ Nơi thì kết luận nặng, phải can thiệp cấp tốc 5 buổi/tuần.

+ Có nơi nói nên uống thuốc, nơi khác lại phản đối hoàn toàn.

+ Có trung tâm nói phải áp dụng nghiêm ngặt, nơi khác lại bảo con cần chơi tự do hơn…

“Tôi bắt đầu mất phương hướng, thậm chí ngờ vực chính mình: Không biết tin ai, không biết mình đã làm đúng hay sai… Con tôi cứ đi từ trung tâm này sang trung tâm khác như một cái máy thử nghiệm mà không ai thật sự hiểu thằng bé cần gì.”

Cảm xúc thường trực trong Mệt mỏi – Lo âu – Dằn vặt

+ Mệt vì chạy chữa: Cứ hi vọng rồi lại thất vọng, con thì không tiến bộ như kỳ vọng.

+ Lo vì thời gian trôi: Sợ “hết giai đoạn vàng”, sợ con càng lớn càng khó dạy.

+ Dằn vặt vì nghi ngờ bản thân: “Có phải tôi sai ngay từ đầu? Lẽ ra đừng chậm trễ…”

“Con tôi bắt đầu có dấu hiệu ‘tự vệ Không muốn đến trung tâm nữa. Nhìn cháu thu mình, tôi thấy đau khổ đến mức muốn buông xuôi. Có lúc tôi chỉ ước giá như mình đừng sinh cháu ra để khỏi khiến nó khổ như vậy…”

Ánh sáng mở ra khi tôi đến gặp chuyên gia Phạm Hiền

“Tôi từng nghe tên chuyên gia Phạm Hiền qua một phụ huynh khác. Lúc ấy tôi chỉ nghĩ: ‘Lại một trung tâm nữa thôi…’. Nhưng rồi lần đầu gặp, tôi đã khóc ngay trong buổi đánh giá đầu tiên – không phải vì điều gì tiêu cực, mà vì lần đầu tiên tôi thấy có người thực sự NHÌN và HIỂU CON MÌNH.”

Điều khác biệt mà tôi và chắc chắn nhiều cha mẹ sẽ cảm nhận được ngay

+ Chuyên gia Không nói nhiều về tên gọi rối loạn mà nói về CON NGƯỜI CỦA TRẺ.

+ Chuyên gia Không hứa hẹn “bao lâu con tiến bộ” mà hướng dẫn cha mẹ từng chút một để có lộ trình phát triển gắn sát năng lực thật của con nhưng không giới hạn con lại

+ Chuyên gia Không “trị liệu hàng loạt” mà thiết kế chương trình cá nhân hóa, theo giai đoạn phục hồi cụ thể.

+ Quan trọng nhất là Chuyên gia đồng hành cả cha mẹ – chuyển hóa chính nhận thức và tâm thế của cha mẹ để trở thành người trị liệu chính cho con thay bằng phụ thuộc vào trung tâm hay giáo viên

“Tôi bắt đầu hiểu: Không phải con tôi không tiến bộ. Mà do tôi chưa từng hiểu con cần gì để có thể phát triển. Chuyên gia Phạm Hiền không chữa bệnh mà khơi mở tiềm năng, và giúp tôi trở thành người đồng hành đúng cách.”

Nuối tiếc nhất là Giá như tôi biết sớm hơn…

“Có những ngày, tôi chỉ biết ngồi nhìn con và thầm nghĩ: Giá như mình đừng để mất 1–2 năm đầu chạy sai hướng… giá như mình gặp được bác Phạm Hiền khi con mới 2 tuổi…”

Nhưng rồi chuyên gia nói:

“Không bao giờ là quá muộn nếu bạn bắt đầu lại bằng một tư duy đúng. Con bạn có thể đã đi qua nhiều nhầm đường, nhưng mỗi đứa trẻ vẫn luôn có thể phục hồi nếu người đồng hành đủ thấu hiểu và quyết tâm.”

Từ vực thẳm sang hi vọng tôi có Một hành trình mới khi tôi bắt đầu thay đổi.

+ Thay đổi tư duy từ “trị bệnh” sang “phục hồi phát triển”.

+ Thay đổi cách nhìn con từ “một đứa trẻ có vấn đề” sang “một cá nhân cần được mở khóa”.

+ Thay đổi chính mình để học lại cách yêu thương, kỳ vọng và đồng hành.

Và điều kỳ diệu

“Con tôi bắt đầu mở lòng. Bé nhìn tôi nhiều hơn, chơi có chủ đích, biết chờ đợi, biết thể hiện mong muốn. Từng điều nhỏ bé thôi, nhưng tôi cảm nhận rõ: Chúng tôi đang đi đúng đường.”

Lời nhắn từ các cha mẹ “đã đi qua bóng tối”

+ Nếu bạn đang mất phương hướng…

+ Nếu bạn đã đi quá nhiều nơi…

+ Nếu bạn bắt đầu muốn buông tay…

+ Hãy thử cho mình một lần đến nghe – hiểu – và đi cùng với một chuyên gia thực sự.

+ Chúng tôi từng tuyệt vọng như bạn – và đã tìm được ánh sáng ở nơi có người thật sự nhìn thấy TRẺ chứ không chỉ nhìn bệnh.

+ Và bạn sẽ ước: Giá như tôi biết điều này sớm hơn…”

2. Chuyên gia Phạm Hiền luôn cho rằng Cha mẹ của những đứa con Rối loạn phổ tự kỷ luôn cần sự được chữa lành đầu tiên

Chuyên gia Phạm Hiền thường đọc vị tâm lý, nhận thức, thái độ, hành vi, cảm xúc, niềm tin của cha mẹ mà không ngại thẳng thắn để giúp họ chữa lành chính họ trước khi chữa lành cho con. Bởi với chuyên gia nếu cha mẹ sống trong bất kỳ sự tổn thương ủy mị hay gai góc thì cũng sẽ luôn khó để đồng hành bền bỉ tới đích cùng con .

Chuyên gia luôn nhấn mạnh “Muốn phục hồi cho trẻ, trước hết phải chữa lành tâm thế của cha mẹ.”

Vì vậy bác ấy không chỉ là người trị liệu cho trẻ mà còn là người “đọc vị – khai mở – chỉnh lý” sâu sắc hệ thống tư duy, cảm xúc, niềm tin và hành vi của phụ huynh.

Và chuyên gia tân lý Phạm Hiền không ngại thẳng thắn “Một đứa trẻ tự kỷ, dù được trị liệu bao nhiêu, cũng khó đi xa nếu người đồng hành chính – cha mẹ – còn đang sống trong tổn thương, sợ hãi, hoài nghi hoặc kiểm soát.”

Chính vì vậy nên bác ấy luôn phân tích chuyên sâu từng khía cạnh của cha mẹ để “đọc vị và điều chỉnh” các sai lầm hoặc chưa nỗ lực tới nơi của cha mẹ. Các cha mẹ đến đây cần phải chuẩn bị tâm thế khi chuyên gia sẽ luôn “Chạm vào nỗi đau để giúp cha mẹ chữa lành cho mình và cho con “

Tư duy kiểm soát – cầu toàn – áp đặt kết quả

+ Vấn đề: Cha mẹ muốn “trị liệu xong là con phải giống người bình thường”. Đặt KPI sau 3 tháng con phải nói, 6 tháng con phải hòa nhập. So sánh con với trẻ hàng xóm hoặc kỳ vọng “phải phục hồi hoàn toàn”.

+ Chuyên gia đọc vị: Bố mẹ đang đối xử với con như một ‘dự án’ cần deadline. Đó là lý do con đang phản kháng. Không phải con không muốn thay đổi, mà là con bị ‘bắt buộc thay đổi theo kỳ vọng của bố mẹ’.”

P/s: Một mẹ từng chia sẻ: Tôi tưởng tôi đang lo cho con. Nhưng chuyên gia Phạm Hiền nói: ‘ Mẹ đang điều khiển con bằng sự lo lắng rất bệnh ’. Tôi đã sốc. Nhưng đúng. Tôi sợ thằng bé làm tôi thất vọng, tôi sợ mình bị đánh giá. Và tôi nhận ra rằng chính tôi cần được chữa lành khỏi nỗi sợ bị chê cười chứ không phải con.”

Cảm xúc tổn thương âm ỉ – sống trong mặc cảm, tự dằn vặt

+ Vấn đề: Cha mẹ có con ASD mang theo cảm giác tội lỗi: “Vì tôi mà con bị thế này”. Hay sống trong trạng thái cam chịu, “tôi chấp nhận số phận”. Giao toàn bộ việc can thiệp cho trung tâm, đứng ngoài cuộc vì sợ sai.

+ Chuyên gia đọc vị: Chị đang làm mẹ bằng nỗi đau chứ không phải bằng tình yêu. Khi nỗi đau dẫn dắt, thì năng lượng của chị là ‘cứu rỗi’ – không phải ‘đồng hành’. Và con chị sẽ cảm nhận được điều đó.”

P/s: Một bố từng tâm sự: ôi nghĩ con tôi như một hình phạt dành cho tôi vì những sai lầm thời trẻ. Tôi không dám nhìn con lâu. Nhưng khi chuyên gia tâm lý Phạm Hiền nói: ‘Anh cần xin lỗi chính mình, chứ không cần xin lỗi con. Con cần một người bố sống thật, không phải một cái bóng ám ảnh’, tôi thực sự bật khóc.”

Thái độ khép kín – phòng thủ – “tôi biết rồi”

+ Vấn đề: Cha mẹ có xu hướng phủ nhận vấn đề hoặc chống lại góp ý. Cho rằng đã biết hết thông tin (tự học, từng đi nhiều nơi). Phản ứng phòng thủ trước bất kỳ phản biện nào từ chuyên gia.

+ Chuyên gia đọc vị: Bố mẹ không thiếu thông tin, nhưng đang bị mắc kẹt trong ‘niềm tin mệt mỏi’. Sự phản kháng không nằm ở trí óc, mà ở nỗi đau mà bố mẹ chưa dám chấp nhận để đối mặt.

P/s: Một mẹ từng chia sẻ: Tôi từng phản bác chuyên gia Phạm Hiền ngay buổi đầu: ‘Em biết rồi, chỗ trước cũng nói vậy’. Bác ấy đã rất nghiêm khắc ‘Vậy em về đi, đến khi em sẵn sàng thật sự làm mẹ bằng sự kiên trì, nhẫn nại đến cùng thì quay lại gặp bác sẽ hướng dẫn ’. Tôi sốc. Nhưng 2 tuần sau tôi quay lại – vì tôi hiểu, lần đầu tiên có người dám lật ngược mặt nạ ” Em biết rồi” của tôi.

Niềm tin lệch chuẩn – hoang tưởng trị liệu, tin vào ‘thần dược’

+ Vấn đề: Phụ huynh bị cuốn vào trào lưu: thuốc bổ não, phương pháp siêu tốc, cấy ghép, oxy cao áp… Tin rằng chỉ cần đúng cách là con sẽ “hết tự kỷ ngay”. Dễ rơi vào lạm dụng trị liệu nặng quá mức với trẻ.

+ Chuyên gia đọc vị: Bố mẹ không thực sự tin vào khả năng của con. Bố Mẹ chỉ tin vào ‘phép màu bên ngoài’. Đó là một dạng trốn tránh trách nhiệm tinh tế mà bản thân bố mẹ cũng không nhận ra đâu

P/s: Một phụ huynh kể: Tôi từng đưa con đi làm hơn 6 loại can thiệp trong 1 năm, mỗi ngày chạy 4–5 lớp. Chuyên gia Phạm Hiền chỉ hỏi: ‘Hôm nay, em dành bao nhiêu phút thật sự chơi với con mà không có kỳ vọng phải đạt được mục tiêu ngay ?’ Tôi nghẹn họng. Và lần đầu tôi hiểu rằng tôi đã biến con thành nạn nhân của sự cuồng lo sợ của mình.”

Thái độ nóng vội – mất kiên nhẫn – dễ dao động

+ Vấn đề: Mới làm 1–2 tháng chưa thấy kết quả rõ đã bỏ. Liên tục thay đổi trung tâm/phương pháp theo cảm xúc. Dễ bị tác động bởi người thân, mạng xã hội.

+ Chuyên gia đọc vị: Chị không tin vào quá trình. Chị chỉ đang mong ‘kết quả như mơ’. Và khi điều mơ ước không đến sớm, chị quay lưng. Nhưng con không cần ‘kết quả nhanh’ – con cần mẹ ở lại.”

P/s: Một mẹ tâm sự: Tôi đã từng hối hận vì dừng chương trình đúng lúc con bắt đầu tiến bộ. Cô Phạm Hiền nhìn tôi và nói: ‘Con không cần mẹ đúng 100% – nhưng cần mẹ đủ kiên nhẫn để không bỏ đi mỗi khi khó khăn’. Câu đó khiến tôi thay đổi hoàn toàn để nhẫn nại và nỗ lực không từ bỏ cho đến khi đạt được mục tiêu cùng con mới thôi .”

Quan điểm Chữa lành cha mẹ – để đồng hành đúng và bền với con đã giúp rất nhiều cha mẹ và con được rẽ sang bước ngoặt ánh sáng. Vì vậy chuyên gia không trị liệu trẻ một cách đơn lẻ, mà luôn nhìn hệ sinh thái phát triển của trẻ là chính cha mẹ. Và chuyên gia luôn nhấn mạnh rất nghiêm túc thậm chí nghiêm khắc: Con Trẻ không lớn lên trong phương pháp. Trẻ lớn lên trong vòng tay của người đã thật sự hiểu và chữa lành chính mình.”

3. Chữa lành Những người Mẹ gai góc trong mất niềm tin

Chuyên gia Phạm Hiền hay đặt biệt hiệu cho những người mẹ này là MẸ GAI để từ đó đi sâu vào từng ngóc ngách các tổn thương xù lông nhím của họ:

+ Tại sao họ trở nên gai góc, cứng rắn đến lạnh lùng?

+ Điều gì ẩn sau vẻ ngoài mạnh mẽ ấy?

+ Và làm sao chuyên gia Phạm Hiền đã chạm vào được vùng tổn thương bên trong ấy để giúp họ “mềm ra mà không gục ngã”?

Họ là ai? – Những người mẹ gai góc trong mất niềm tin

+ Vỏ bóc bên ngoài: Mạnh mẽ, quyết liệt, quyết đoán. Nói thẳng, không sợ va chạm, luôn “cảnh giác” với người đối diện. Ra quyết định nhanh, gạt cảm xúc sang một bên.

+ Ẩn sâu bên trong: Là một trái tim đầy vết xước sau quá nhiều lần hy vọng rồi thất vọng. Là một người phụ nữ kiệt sức trong hành trình đơn độc nuôi con “không giống ai”. Là một người đã từng mềm – từng yêu thương đầy cảm xúc – nhưng bị tổn thương đến mức phải “mặc áo giáp” để tiếp tục sống sót.

P/s: Lời tâm sự: Tôi đã từng là người mẹ dịu dàng. Nhưng từ ngày biết con có vấn đề, tôi đã phải học cách ‘bình tĩnh’ để còn sống nổi. Mềm yếu không cứu được con – tôi phải học cách không tin ai, không lệ thuộc vào ai nữa.

Lý do họ trở nên “gai góc”

+ Bị tổn thương lặp lại nhiều lần từ hệ thống chuyên gia – trung tâm – người thân

+ Hy vọng rồi thất vọng khi đi từ nơi này đến nơi khác, nghe những kết luận mâu thuẫn.

+ Bị phán xét, bị thương hại, bị gạt ra ngoài trong các cuộc hội thoại về con mình.

+ Gia đình không đồng hành – có khi bị chính người thân đổ lỗi.

P/s: Tâm sự của phụ huynh: Người ta bảo tôi lo xa, bảo tôi tự kỷ thay con. Sau đó khi con được chẩn đoán, họ lại bảo: ‘Tại mày không biết nuôi’. Tôi đã thề: từ nay tôi không tin ai nữa.

Quá đau mà không được quyền bộc lộ – nên nén thành giận dữ và kiểm soát

+ Người mẹ ấy không dám khóc trước mặt con.

+ Không dám buông tay vì sợ chẳng ai cứu con ngoài mình.

+ Và khi cảm xúc bị dồn nén quá mức nên họ chọn một vai: người mẹ lạnh – lý trí – sắc bén.

P/s: Tâm sự của phụ huynh: Tôi không cần ai thương hại. Tôi chỉ cần họ làm đúng việc. Nếu không giúp được con tôi, thì đừng nói đạo lý.

Chuyên gia Phạm Hiền đọc vị và tháo gỡ ra sao?

B1. Đối đầu đọc các vấn đề của người mẹ để kích hoạt sự tức giận cao độ từ đó xả hết các bức bối ra

+ Thường bước này nếu các Mẹ Gai nhưng tích cực và cầu thị sẽ không tức giận mà chia sẻ thẳng thắn thậm chí đi vào tâm sự. Thường những người mẹ này chuyên gia sẽ hướng dẫn chi tiết cách chuyển hóa ngay trong từng vấn đề một cách tình cảm nhưng quyết liệt trong sự nghiêm túc cao.

+ Nhưng với các Mẹ Gai đã nhiễm khuẩn sự tiêu cực thì sẽ thể hiện hết phần con từ Thái độ, cách nói, hành vi rất bất ổn. Thường những người mẹ này chuyên gia sẽ kích hoạt ( tiêm chích) để mẹ bộc lộ hết, bộc lộ sạch như được ấn nút xả các sự ấm ức lâu ngày. Sau đó nếu họ bình tĩnh được chuyên gia sẽ hướng dẫn cách chuyển hóa ngay trong từng vấn đề một cách tình cảm nhưng trong sự nghiêm khắc rất cao. Tuy nhiên, những người mẹ nào đã quá mà bất cần bỏ đi thì chắc chắn sẽ không thể có các bước sau của chuyên gia, nhưng với chuyên gia việc đã giúp họ một lần ấn nút xả thì dù có tức tối, có bất mãn chuyên gia thì họ cũng đã tự chữa lành cho bản thân họ một phần.

P/s: Tâm sự của một người mẹ: Tôi đã bất cần đi về và sau đó suy ngẫm kỹ những gì chuyên gia nói. Sau đó chỉ vài tuần tôi đã xin hẹn lịch để gặp lại bác ấy. Vì bác ấy nói rằng ghét bác cũng được nhưng đừng thấy ngại hay xấu hổ nếu như đã suy ngẫm nghiêm túc và vỡ ra được những gì bác ấy nói.

B2. Không đối đầu mà nhìn thấy đứa trẻ tổn thương tận sâu bên trong của người mẹ

+ Chuyên gia thường nói với người thân của người Mẹ Gai này rằng: T ôi không nhìn thấy một người mẹ tiêu cực mà chỉ nhìn thấy một người mẹ tổn thương như con thú hoang nhỏ bị thương vậy. Tôi nhìn thấy con thú nỏ đó đã từng bị bỏ rơi giữa những phán xét và những lời hứa hão. Họ bắt buộc phải gồng lên để mạnh vì không được phép yếu.” Từ đó chuyên gia cho chồng, cho bố mẹ (ông bà) của những bà Mẹ Gai này nhận ra họ đã để cho con thú hoang nhỏ này tổn thương đến mức độ nào.

+ Chuyên gia thường đi thẳng vào phần gốc rễ: Đặt đúng câu hỏi để người mẹ quay lại kết nối với cảm xúc thật của mình. Dẫn dắt họ từ từ “mềm ra để chữa lành, chứ không phải gục ngã”.

P/s: Tâm sự của một người bố: Em đã hiểu vì sao vợ em ngày càng đánh mất đi chính mình. Trước kia bạn ấy rất tích cực và quan tâm mọi người nhưng bây giờ bạn ấy bất cần, vô cảm và đóng lại chẳng quan tâm đến ai chỉ quan tâm con trai em thôi. Em xấu hổ vì đã bỏ rơi mẹ con cô ấy suốt 10 năm qua. Bác nói đúng ” Vợ em không cần dịu dàng, chỉ cần bạn ấy sống thật với lòng mình và có người đồng hành giúp bạn ấy”

Bên trong lớp vỏ gai – là tình yêu không biết đặt tên

+ Những người Mẹ Gai góc không phải vì không yêu con.

+ Mà vì: Không biết làm sao để yêu một đứa trẻ không đáp lại mình bằng nụ cười, tiếng nói, cái ôm. Không ai dạy họ yêu thương đúng cách khi yêu thương trở thành… bất lực. Không còn ai để dựa – nên đành trở thành bức tường vững chãi cho con, dù trái tim bên trong đã nứt ra từng mảnh.

P/s: Tâm sự của một người mẹ: Em trút tức giận lên bác rồi thì bác còn nghe và giúp em nữa không. Em cảm thấy tảng đã hơn 5 năm qua được gỡ xuống bác ạ. Lúc đầu em hiểu sai tưởng bác là chuyên gia tâm lý mà chẳng giúp em làm tâm lý mà lại khiến em tức giận hơn. Đúng như bác nói ” Bao giờ con thú hoang trong em dám nhận ra vết thương của chính mình và cảm nhận nó đau đến tột cùng thì lúc đó em đã được chữa lành”

Chuyển hóa Mẹ Gai Từ gai góc thành kiên cường dịu dàng

+ Chuyên gia nói: Bác không cần em từ bỏ sự mạnh mẽ. Nhưng hãy học mạnh mẽ đúng cách . Em mạnh để làm nền móng vững cho con, chứ không phải để che giấu nỗi đau và làm em đau hơn.

+ Những gì người Mẹ Gai học được sau khi đối đầu đến ôn hòa cùng chuyên gia: Biết mềm ra mà không tan vỡ. Biết yêu con mà không cần kiểm soát. Biết có thể nói “tôi mệt” mà không thấy xấu hổ. Biết tin lại vào hành trình – vào người đồng hành – vào chính mình.

LỜI NHẮN GỬI CHO CÁC NGƯỜI MẸ “MANG GAI”

+ Nếu bạn đang là người mẹ cứng cỏi, gai góc, thậm chí hay giận dữ…

+ Có thể bạn đã từng bị tổn thương đến mức không còn tin vào ai.

+ Nhưng con bạn không cần một người mẹ toàn năng – con chỉ cần một người mẹ thật lòng.

+ Và bạn không phải gồng mãi một mình.

+ Hãy để một người đủ thấu hiểu như chuyên gia Phạm Hiền giúp bạn gỡ bỏ chiếc áo giáp – để con bạn được ôm trong vòng tay một người mẹ thật sự đã được chữa lành.

3. Người mẹ tổn thương trong ám ảnh, sợ hãi và phải uống thuốc trầm cảm

Đây là một góc khuất rất thật nhưng thường bị im lặng, né tránh hoặc phủ nhận –trong hành trình nuôi con rối loạn phát triển, đặc biệt là trẻ rối loạn phổ tự kỷ. Và cũng chính trong những ca như thế, chuyên gia Phạm Hiền không chỉ đưa giải pháp can thiệp, trị liệu cho trẻ, mà đưa tay kéo người mẹ ra khỏi hố đen tâm lý, bằng một cái nhìn thẳng – đầy thấu hiểu – và vô cùng nghiêm khắc nhưng nhân văn.

Người mẹ trong ám ảnh và sợ hãi – họ là ai?

+ Họ là những người mẹ từng hỏi: Sao con mình không giống ai?, Có phải lỗi của mình không?, Cả đời con sẽ thế này sao? Tôi chịu không nổi…

+ Họ thường phải trải qua: Cơn hoảng loạn ban đầu khi phát hiện con bất thường. Giai đoạn đổ lỗi cho bản thân hoặc người khác. Vòng xoáy tìm nơi chẩn đoán – can thiệp – thay đổi – thất vọng. Cuối cùng, rơi vào trầm cảm dạng chức năng: vẫn làm, vẫn sống, nhưng bên trong là vực thẳm.

P/s: Tâm sự của một người mẹ “Tôi vẫn cười khi đưa con đến lớp. Nhưng buổi tối tôi không ăn nổi cơm. Tôi không ngủ. Tôi phải uống thuốc ngủ và thuốc trầm cảm mỗi tối để không gào khóc.”

Căn nguyên của trầm cảm nơi người mẹ có con rối loạn phát triển

+ Ám ảnh mất kiểm soát – “Tôi không cứu được con”

+ Tự thấy bất lực trước một điều không có lời giải nhanh chóng.

+ Cảm giác mình đã làm mẹ thất bại nên dằn vặt triền miên.

P/s: Tâm sự của một người mẹ: Tôi là mẹ mà không biết con cần gì. Tôi đã chậm trễ. Tôi đáng trách.

Tâm sự của một người mẹ Sợ hãi về tương lai mù mịt

+ Sợ con không nói được.

+ Sợ con không học được.

+ Sợ con không tự lập.

+ Sợ con không có bạn.

+ Sợ mình chết rồi thì ai lo cho con…

P/s: Tâm sự của một người mẹ : Tôi không dám nghĩ đến tương lai. Mỗi khi nghĩ đến, ngực tôi đau nhói, tay lạnh toát. Tôi thấy mình như người bị kết án chung thân.

Cảm giác cô đơn đến tuyệt vọng

+ Không ai trong nhà hiểu đúng vấn đề.

+ Bạn bè, người thân chỉ nói: “Cứ để nó lớn là tự hết.”

+ Không ai thực sự lắng nghe nỗi đau – chỉ đưa lời khuyên bâng quơ.

P/s: Tâm sự của một người mẹ: Tôi đã từng nghĩ đến việc biến mất. Vì cảm giác sống mà không ai thấy mình.

Cách chuyên gia Phạm Hiền tiếp cận:

B1. Không dỗ dành – mà chạm đúng nỗi đau để chữa lành

+ Không phủ nhận trầm cảm – mà nhìn thẳng: Em không yếu đuối mà chỉ đang kiệt sức vì đã gồng quá lâu không ai hiểu. Nhưng em ơi, con cần một người mẹ sống không phải tồn tại bằng sự tạo ra yếu đuối để trở thành một người bệnh phụ thuộc vào thuốc. Em truyền cho con năng lượng bệnh tật này thì con em có khỏe được không?.

+ Không khuyên hay vuốt ve “cố lên” – mà giúp cha mẹ đặt lại lại gốc niềm tin: Bạn sợ điều gì? Rằng con sẽ không bình thường? Nhưng con chưa từng là ‘dị thường’. Con chỉ chưa có ai đủ kiên nhẫn giúp con mở cánh cửa phát triển. Và mẹ chính là chiếc chìa khóa đầu tiên nhưng em đóng và khóa chặt nó lại rồi còn đâu. Hãy mở khóa tâm trí và tinh thần của em ra em sẽ thấy nhiều cánh cửa mở tung cho ánh sáng và gió vào.

B2. Kết nối cho mẹ với sức mạnh sống còn bên trong để tự cứu mình, cứu con

+ Chuyên gia thường nói: Tôi không cần em phải vui. Tôi cần em bắt đầu lại từng bước – từ chính vết thương của mình. Mỗi giọt nước mắt em rơi ra đúng chỗ là một hạt giống hồi phục cho cả hai mẹ con.”

+ Chuyên gia cho người mẹ Được nhìn nhận cảm xúc thật mà không bị đánh giá. Tuy nhiên sẽ luôn nhấn mạnh “Em có quyền đau. Nhưng nỗi đau này không được để nó kéo em xuống như phải chấp nhận định mệnh.”

+ Chuyên gia sẽ Được dẫn dắt đặt lại mục tiêu thực tế theo Từng bước nhỏ: “Hôm nay con có nhìn vào mắt mẹ không?”, “Con có ngồi chơi bên mẹ 5 phút không?”, có một chút đúng không?. Tín hiệu vui đấy cố lên mẹ con em làm được chỉ cần không từ bỏ.

+ Chuyên gia luôn để cho người mẹ Được sống lại vai trò NGƯỜI MẸ – chứ không chỉ là NGƯỜI TRỊ LIỆ nên sẽ dẫn dắt Kết nối lại tình mẫu tử – chứ không biến tình yêu thành “dự án phục hồi chức năng”.

Câu chuyện thực tế: Một mẹ từng trầm cảm 2 năm và bước ra từ “vực thẳm vô hình”

+ Tôi đã uống thuốc trầm cảm gần 2 năm, ngủ nhờ thuốc, không thiết sống.

+ Nhưng đến khi gặp chuyên gia Phạm Hiền, tôi không được dỗ dành, mà bị nói rất thẳng: Em đã giao phó quyền làm mẹ cho nỗi sợ. Và em đang để con mình lớn lên trong một bầu không khí ướt lạnh. Em cần hồi sinh, không phải vì con, mà vì chính em. Tôi đã khóc suốt buổi hôm đó. Bác ấy không khuyên tôi ngừng thuốc.

+ Bác ấy bảo: ‘Hãy dùng thuốc để đứng dậy. Nhưng muốn đi tiếp, em phải đi bằng ý chí, chứ không phải thuốc.

+ Từng chút một, tôi tập ngủ lại không thuốc. Tập viết nhật ký cảm xúc. Tập cười khi con gọi “mẹ” lần đầu. Và tôi vẫn đi trị liệu cùng con mỗi tuần nhưng giờ tôi không còn gồng, không còn sợ. Tôi biết tôi đang sống trở lại và con tôi cũng đang được hồi sinh.

Những người mẹ trầm cảm gửi nhắn nhủ đến những người mẹ đang uống thuốc để cầm cự vì con bị ASD

+ Bạn không sai khi cần đến thuốc để không sụp đổ. Nhưng hãy nhớ, thuốc chỉ là cầu tạm.

+ Bạn mới chính là chiếc thuyền cứu sinh của con – và cũng là người duy nhất có thể kéo chính mình lên khỏi đáy.

Và nếu bạn chưa gặp ai thực sự hiểu nỗi đau ấy. Hãy thử cho mình một cơ hội được ngồi lặng với một người như chuyên gia Phạm Hiền – người không chữa bệnh, mà chữa niềm tin.

4. Chữa lành một ông bố thương vợ, thương con nhưng tổn thương trong cực đoan mà đổ lỗi con bị tự kỷ là do gen nhà mẹ

Đây là một lát cắt rất thật, rất đau, nhưng cũng rất phổ biến trong các gia đình có con rối loạn phổ tự kỷ – một người cha thương con, thương vợ, nhưng mang trong mình sự tổn thương sâu kín và biểu hiện qua sự cực đoan, đổ lỗi cho vợ, cho con.

Người bố tổn thương trong cực đoan – họ là ai?

+ Vỏ bọc bên ngoài: Họ thường không khóc, không nói nhiều, không biểu lộ rõ nỗi đau. Nhưng họ sống trong hoài nghi, thất vọng, bất lực, và dần hình thành niềm tin sai lệch để tìm nơi “trút” nỗi đau không thể gọi tên: “Tôi chỉ muốn tìm ra nguyên nhân. Rõ ràng nhà tôi không ai bị gì cả. Sao thằng bé lại thế này. Liệu có phải gen của nhà cô không ?”. “ Em coi lại đi, hồi đó anh đã bảo đừng mang thai khi đang uống thuốc… giờ thì thế đấy!”

+ Bên trong những lời như vậy: Không phải là căm ghét, không phải là vô trách nhiệm mà là một người đàn ông đang gào thét trong sự hoang mang và tuyệt vọng.

Gốc rễ của sự đổ lỗi – từ tổn thương chưa có chỗ xả

+ Người cha bị mất kiểm soát: Họ quen làm “chỗ dựa” cho vợ con nên khi đứa con họ kỳ vọng không phát triển như bình thường, họ cảm thấy mất quyền lực bị mất khả năng kiểm soát. Để giữ cảm giác “mình vẫn làm đúng”, họ cần một đối tượng để đổ lỗi. Và người gần nhất – lại chính là vợ với sự bất lực “Tôi không muốn làm cô tổn thương, nhưng tôi phải nói ra, vì tôi không chịu nổi cái cảm giác này…”

+ Tổn thương tự ái dòng tộc: Với nhiều người đàn ông, “giống nòi”, “gen di truyền”, “dòng tộc” là danh dự. Khi con họ bị chẩn đoán tự kỷ, họ rơi vào sự xấu hổ vô hình, đặc biệt nếu gia đình bên nội có nhiều áp lực nên để bảo vệ “dòng tộc”, họ tự dựng lên giả thuyết là lỗi do bên kia. Với câu nói khắc khoải vô thức “Chắc chắn không phải nhà tôi. Trước giờ làm gì có ai như thế…”

Người đàn ông Thiếu ngôn ngữ cảm xúc nên dùng lời sát thương thay vì biểu đạt

+ Không được dạy cách nói: Anh đang đau, anh sợ, anh buồn vì con mình. Nên chỉ biết ném ra những câu “Tại cô đó!”, “Con thế này là vì cô cả!”

+ Nhưng thực chất họ đang nói: Anh đang rất sợ. Anh không biết phải làm sao. Anh cảm thấy bất lực kinh khủng…”

Chuyên gia Phạm Hiền giúp gì cho những ông bố ấy?

B1. Đối đầu và tranh luận đến cùng để giúp “giải mã” tổn thương.

+ Chuyên gia sẽ nói chuyện vào các vấn đề một cách thẳng thắn để kích hoạt người bố bỏ sự sỹ diện mà bộc lộ hết suy nghĩ gồm cả đã hiện hữu và vẫn che giấu lặng lẽ bên trong: Anh không sai khi muốn tìm nguyên nhân. Nhưng nếu nguyên nhân chỉ để đổ lỗi, thì đứa trẻ sẽ không có lối ra.

+ Chuyên gia không phán xét cảm xúc cực đoan của bố, mà chuyển hóa dần thành hiểu biết sâu sắc về sự phát triển toàn diện của con trẻ từ não bộ, cảm xúc, tâm lý, hành vi và khả năng của trẻ để người bố hiểu rằng vấn đề không do lỗi tại ai, kể cả do gen thì cũng phải là cả hai trong sự kết hợp nên không phải cứ mải miết chạy đổ lỗi mà bỏ rơi con phía sau với từng ngày, từng tuần nó đang đợi được giúp nó phục hồi.

B2. Dẫn dắt người bố đi từ cảm xúc sang hành động

+ Chuyên gia thường nói: Nếu anh thực sự yêu con – thì điều con cần không phải là một người bố chứng minh đúng – mà là một người bố giúp con từng bước phục hồi.” .

+ Nên chuyên gia thẳng thắn giúp bố thấy được: Những điều bố mẹ có thể kiểm soát thì phải nắm bắt nó một cách chặt chẽ và quyết liệt (học cùng con, chơi với con, hỗ trợ mẹ) và những điều không thể kiểm soát (gen, quá khứ, chẩn đoán) thì hãy bỏ qua nó để không giới hạn con lại bằng sự bất lực của cha mẹ.

B3. Gợi mở lòng trắc ẩn đang bị vùi lấp

+ Chuyên gia thường dùng những câu như: Anh đã từng thấy vợ mình ngủ ngồi bên con không?. Anh có từng nhìn ánh mắt của cô ấy khi con gọi ‘mẹ’ lần đầu?. Cô ấy không cần một lời xin lỗi – mà cần một người đi cạnh trong trận chiến dài này.”

+ Người bố được đánh thức tình yêu chân thật – vượt lên sự sợ hãi và tự ái.

Câu chuyện thật Người bố từng đổ lỗi, rồi bật khóc qua lời kể của người mẹ

+ Anh là kỹ sư, tính toán logic, ít nói. Khi đến gặp chuyên gia, anh khẳng định: “Do gen nhà vợ.”

+ Nhưng chuyên gia không phản bác mà bác ấy chỉ đưa anh xem video con chơi một mình, không giao tiếp. Rồi hỏi: “Nếu đây là lỗi gen – thì anh làm gì bây giờ? Nếu đây là trách nhiệm – thì anh có thể làm gì ngay sau ngày hôm nay gặp bác ?”

+ Anh im lặng. Lần sau đến, anh đưa vợ đi cùng. Lặng lẽ, anh học cách chơi cùng con 10 phút mỗi tối.

+ 3 tháng sau, vợ anh nói trong nước mắt: “Anh ấy không còn đổ lỗi nữa. Mỗi ngày về anh ôm con. Anh xin lỗi tôi bằng hành động. Và tôi hiểu: anh cũng từng rất đau.”

Gửi những người Bố Gai vì thương yêu không đúng cách

+ Đôi khi, yêu thương lớn quá mà không có cách bày tỏ, sẽ biến thành sự im lặng hoặc nặng lời.

+ Nhưng người cha tốt không phải là người không bao giờ hoang mang Mà là người dám quay lại nắm tay vợ và bước cùng con trên hành trình chữa lành.”

+ Và nếu bạn từng lỡ đổ lỗi – hãy tha thứ cho chính mình trước, rồi hành động.

+ Trẻ không cần một người cha hoàn hảo – chỉ cần một người cha không buông tay.

5. Chữa lành Một người mẹ bấn loạn vì phải áp dụng phương pháp để đồng hành với con

Chân dung người mẹ bấn loạn

+ Mẹ không phải không yêu con

+ Nhưng mẹ cảm thấy mình không thể tiếp tục sống thế này mãi.

+ Mỗi ngày đều là một cuộc chiến: nói – nhắc – dạy – thất vọng – tự dằn vặt.

+ Có lúc chỉ mong được… buông ra. Nhưng lại không dám nói điều đó, sợ bị phán xét.

P/s: Tâm sự người mẹ: Tôi từng nuôi ba đứa con lớn thành người, tử tế, học giỏi. Nhưng đến thằng út này, tôi như rơi xuống địa ngục mỗi ngày. Tôi kiệt sức rồi…

Gốc rễ của sự bấn loạn – không phải vì yếu đuối, mà vì quá lâu không được thấu hiểu

+ Sự so sánh tàn nhẫn trong chính lòng mình: Ba đứa kia có cần thế này đâu. Tôi dạy một lần là biết. Nó thì dạy hoài, nhắc hoài không nhớ. Tôi từng là người mẹ tốt – giờ lại thấy mình bất lực trước chính con mình. Nên Sự bấn loạn là do mất phương hướng và đổ vỡ hình ảnh người mẹ trong chính mình.

+ Áp lực từ xã hội – và sự cô đơn trong đồng hành: Bên ngoài thì ai cũng nói tôi Phải đồng hành với con, phải tích cực, kiên trì. Nhưng bên trong, người mẹ biết: mình không còn đủ năng lượng, không còn đủ niềm tin “Tôi thấy mình như cái bóng. Chỉ biết làm – chứ không còn biết sống.”

+ Cảm giác có lỗi với những đứa con khác: Tôi dồn hết cho nó, còn ba đứa kia thì tự xoay xở. Tôi như biến thành một người mẹ khác – cáu gắt, vô cảm – tôi sợ chính mình. Nên người mẹ rơi vào xung đột nội tâm nặng nề: giữa bản năng làm mẹ – và khát khao được sống yên bình.

Khi chuyên gia Phạm Hiền lắng nghe nhưng nghiên khắc “chạm đúng chỗ đau”

+ Chuyên gia không vội yêu cầu người mẹ quay lại “đồng hành”, mà trước hết giúp mẹ: Thừa nhận mình đã kiệt sức – và không còn là chính mình: Em không sai vì kiệt sức. Không ai đi một mình mãi trên con đường này mà không mòn mỏi nhưng em sai nếu cố gồng tiếp mà không tìm điểm dừng.”. Nên Chuyên gia mở ra một không gian cho người mẹ “được gục xuống một lúc mà không bị kết tội” nhưng sau đó sẽ yêu cầu tạo lại sự chiến đấu cùng con.

+ Phân biệt giữa “tạm nghỉ” và “phó thác”: Bạn không sai nếu cần một khoảng lùi. Nhưng nếu để con đi như một cách trốn chạy, thì chính bạn sẽ còn đau hơn khi con lớn lên và cái tôi nó cũng lớn lên trong vô thức .”. Nên phó thác không giải thoát được mẹ khỏi gánh nặng này đâu. Muốn nhẹ dần gánh nặng thì phải bỏ bớt dần các vấn đề của con phía sau mỗi độ tuổi và không để nó gánh thêm khi iến chứng nhiều hơn trong các độ tuổi tiếp theo.

+ Gợi lại kết nối cảm xúc đã bị tê liệt: Lần cuối con nhìn chị và cười là khi nào?. Lần cuối chị ôm nó mà không nghĩ gì ngoài tình thương là lúc nào?”. Người mẹ bật khóc. Không phải vì xấu hổ. Mà vì được chạm vào tình yêu đã từng có nhưng bị vùi lấp.

+ Chuyển hóa: Từ trốn chạy sang tái kết nối. Không phải người mẹ nào cũng có thể làm toàn thời gian. Không ai yêu cầu mẹ phải “toàn năng, toàn diện”. Nhưng nếu chị chỉ cần mỗi ngày kết nối với con 15 phút thật sự, Thì con chị đã có một người mẹ hiện diện – hơn là một người mẹ chỉ biết chạy trốn.

Câu chuyện thật khi Người mẹ từng “gửi con để trốn” và hành trình quay lại

+ Một người mẹ từng gửi con 4 tuổi vào nội trú toàn thời gian sau 6 tháng trị liệu thất bại.

+ Mỗi lần gọi về, mẹ chỉ hỏi: “Nó có ăn không? Có ngồi yên không?”

+ Chuyên gia không trách, chỉ hỏi một điều: Chị có thấy nhẹ lòng không từ ngày con đi?

+ Mẹ im lặng. Rồi nói: “Tôi tưởng tôi sẽ thoát. Nhưng mỗi ngày tôi đều mơ thấy nó ngồi góc lớp khóc.”

+ 1 tháng sau, mẹ xin rút con khỏi nội trú.

+ Mẹ không quay lại với thái độ “phải gồng gánh”, mà học cách: Phân chia thời gian hợp lý, có hỗ trợ. Không đồng hành với kỳ vọng, mà với sự chấp nhận. Không “hành xác” để thành người mẹ tốt – mà sống thật để còn yêu con đúng.

Gửi người mẹ đang muốn “thoát thân”

+ Không ai trách bạn nếu chị thấy mệt, thấy muốn rời bỏ.

+ Nhưng nếu chị đi khi chưa chữa lành tổn thương trong lòng, thì nỗi ám ảnh sẽ theo bạn cả đời.

+ Có thể bạn cần nghỉ. Nhưng đừng phó thác.

+ Có thể bạn cần giúp đỡ. Nhưng đừng tự cắt lìa tình mẫu tử bằng im lặng.

+ Bạn từng sinh con ra từ tình yêu – hãy cho mình một cơ hội để nuôi con bằng sự thật lòng, dù có chậm, dù không hoàn hảo.

+ Bạn không đơn độc nếu dám gọi tên nỗi đau.

6. Chữa lành Nỗi đau của bố mẹ khi chấp nhận dừng can thiệp và thay thế đứa trẻ khác là điểm tựa cho con RLPTK

Đây là một nỗi đau thầm lặng mà rất nhiều phụ huynh mang trong tim suốt đời. Khi một ngày nào đó, họ dừng can thiệp cho đứa con đầu tự kỷ, vì đã quá mệt mỏi, quá tuyệt vọng, và nghĩ rằng mình không thể làm gì hơn, rồi lựa chọn sinh thêm một đứa con thứ với niềm hy vọng “sau này có người hỗ trợ anh”…

Nhưng tuổi dậy thì của đứa trẻ tự kỷ đến như một cơn bão,

Và lúc ấy, bố mẹ đối diện với chính mình trong sự hối hận tột cùng – vì đã từng từ bỏ, từng tính toán theo lý trí mà quên mất rằng: Đứa con tự kỷ cũng có cảm xúc, cũng lớn lên, và cũng cần mình hơn bao giờ hết, đặc biệt lớn lên nó có quá nhiều các biến chứng khiến cha mẹ chẳng thể yên thân.

Nỗi đau được giấu kỹ bằng “sự hợp lý”

+ Ban đầu: Con can thiệp 2 năm rồi mà không tiến bộ gì mấy. Gia đình cũng kiệt sức tài chính, tinh thần. Thôi, chấp nhận số phận vậy.

+ Rồi sau đó là: Sinh thêm một đứa để sau này còn lo cho anh. Em nó lanh lợi, thông minh, biết đâu kéo anh lên được. Chứ cứ thế này cả đời thì… ai gánh nổi?

+ Những câu nói tưởng như hợp lý, lại chính là cách họ đang che giấu sự bất lực, đau khổ, và tuyệt vọng.

Thật ra, bố mẹ không từ bỏ con – họ từ bỏ chính mình trong lúc yếu đuối nhất. Nhưng đứa trẻ thì không thể hiểu điều đó.

Tuổi dậy thì – cú va đập của thực tại

+ Khi đứa con tự kỷ bước vào tuổi 12–15 Hành vi rối loạn tăng mạnh: nổi loạn, cáu giận, đập phá, tự làm đau mình. Không còn dễ kiểm soát bằng “yêu thương thụ động”. Không thể “kệ” như lúc còn nhỏ được nữa.

+ Lúc đó, đứa em còn nhỏ, chưa đủ sức “gánh” gì cho anh.

+ Và bố mẹ mới ngỡ ngàng: Chúng tôi đã nghĩ sai. Không ai có thể thay mình gánh phần đời của con. Chúng tôi tưởng đứa em sẽ đỡ anh. Nhưng em nó cũng cần sống cuộc đời riêng. Chúng tôi đau đến mức không dám nhìn vào mắt đứa lớn…”

Sự hối hận không nằm ở quá khứ – mà ở hiện tại không thể làm gì

+ Giá như mình đừng buông sớm như vậy.

+ Giá như ngày đó mình tiếp tục kiên trì với con thêm một năm nữa thôi.

+ Họ không tự tha thứ được.

+ Và bắt đầu dằn vặt chính mình: Trốn tránh không dám tiếp xúc với con. Cảm thấy xấu hổ khi con gào thét giữa đám đông. Mất kết nối cảm xúc với cả đứa con thứ, vì thấy tội lỗi.

Chuyên gia Phạm Hiền giúp họ vượt qua nỗi hối hận ấy như thế nào?

+ Không “đánh vào lỗi” – mà đưa họ trở về vị trí người cha, người mẹ thật sự: Hai bố mẹ không sai khi từng mệt mỏi. Nhưng con không cần một lời xin lỗi dài cả đời – mà cần một người bố, một người mẹ quay lại với nó hôm nay. → Chuyên gia không khơi gợi mặc cảm, mà mở ra con đường tái kết nối.

+ Phá vỡ kỳ vọng sai lầm về “sinh thêm để cứu đứa đầu”: Em của nó không thể sống trọn vẹn nếu cả tuổi thơ là để gánh phần đời của anh nó. Anh nó cũng không thể lớn lên đúng nghĩa nếu chỉ được xem là gánh nặng cho em nó. → Bố mẹ hiểu rằng Mỗi đứa trẻ đều cần được yêu thương vì chính nó, không phải là phương án thay thế cho nhau.

+ Dẫn dắt lại hành trình “đảo chiều biến chứng” ở tuổi dậy thì: Chưa bao giờ là muộn để khởi động lại. Đứa trẻ vẫn còn ở đây, dù tổn thương, nhưng vẫn đang chờ một ánh mắt thật lòng từ bố mẹ.→ Không bắt bố mẹ phải quay lại cường độ cao mà hướng dẫn can thiệp đúng, phù hợp độ tuổi, và phục hồi tâm lý cha mẹ trước.

Một câu chuyện thật – Hành trình của bố mẹ đã từng từ bỏ

+ Hai vợ chồng ngoài 40, từng dừng trị liệu cho con trai tự kỷ từ năm 5 tuổi.

+ Năm con 13 tuổi, bắt đầu có hành vi đập đầu, cào xước em trai, quậy phá liên tục.

+ Họ đến gặp chuyên gia Phạm Hiền, với ánh mắt đầy tội lỗi và bất lực.

+ Người mẹ bật khóc: Em đã sinh thằng em ra vì không tin thằng anh sẽ khá. Nhưng giờ em không biết mình còn đủ tư cách để nhìn mặt nó không. Nó quậy phá đến cùng và không bao giờ hợp tác thậm chí đánh cả bố mẹ …

+ Chuyên gia nói: Em vẫn còn tư cách nếu bắt đầu từ ngày hôm nay, không phải để bù đắp mà để yêu thương đúng cách.”

+ Sau 6 tháng đồng hành theo lộ trình riêng biệt cho độ tuổi, hành vi cào cấu và quậy phá của đứa con đã giảm.

+ Bố mẹ bắt đầu biết nói với nhau về con bằng lòng yêu thương thay vì mặc cảm và bất lực

Đừng để sự hối hận là điều cuối cùng ta để lại cho con

+ Một quyết định buông bỏ trong quá khứ không định nghĩa bạn là cha mẹ tồi.

+ Nhưng một sự quay lại đúng lúc – có thể định nghĩa lại cả phần đời còn lại của con bạn.

+ Không ai có thể thay cha mẹ trong hành trình này. Không phải người em, không phải trường nội trú, không phải thời gian.

+ Con bạn vẫn đang chờ bạn – chờ một ánh nhìn không còn đầy tiếc nuối, mà có lòng tin.

7. Chuyên gia Phạm Hiền chữa lành người bố Khi người bố biết con gây rối khắp mọi nơi nhưng vẫn không muốn chấp nhận sự thật để đưa con vào nguyên tắc mà cho rằng để nó phát triển tự do từ đó tìm ra điểm thiên tài của nó.

Đây là góc nhìn rất phổ biến và đầy đau xót trong hành trình nuôi dạy một đứa trẻ có dấu hiệu rối loạn phát triển – đặc biệt là trẻ tự kỷ. Rất nhiều người bố (hoặc mẹ) không dễ gì chấp nhận sự thật rằng con mình có vấn đề, và họ thường lựa chọn một con đường nghe có vẻ đầy cảm hứng: “Cho con được tự do phát triển để tìm ra điểm mạnh, điểm thiên tài.”

Tuy nhiên, chuyên gia Phạm Hiền qua rất nhiều trường hợp thực tế đã nhìn nhận sâu sắc hơn về tổn thương mà lựa chọn này có thể gây ra, không chỉ với đứa trẻ mà cả với chính người bố. Dưới đây là cách chuyên gia thường “chữa lành” và tháo gỡ từng lớp ngụy lý trí đó của người bố

Nhận diện thật rõ: Sự từ chối không phải vì ích kỷ, mà vì nỗi đau

+ Người bố không muốn đưa con vào khuôn khổ không hẳn vì không quan tâm

+ Mà vì Không chịu nổi cảm giác mất mát hình ảnh “đứa con hoàn hảo” trong mình.

+ Lo sợ con bị gắn mác “bệnh” và bị đối xử khác biệt.

+ Hy vọng con chỉ “đặc biệt”, không “bất thường”.

P/s: Chuyên gia không chỉ trích người bố nhưng khá nghiêm khắc giúp họ gọi tên đúng cảm xúc đang kìm hãm mình. Bởi chỉ khi người bố hiểu mình đang “phản ứng vì sợ hãi”, họ mới có thể quay trở lại làm chỗ dựa vững chắc cho con.

Phân tích logic ngược: “Tự do để phát triển thiên tài” hay “thả nổi để trượt dài”

+ Chuyên gia Hiền phân tích rất thẳng thắn nghiêm khắc nhưng đầy thấu cảm để bố nhìn vào sự thật rằng Trẻ có rối loạn không có đủ nền tảng để tự học hỏi như trẻ bình thường.

+ Khi để trẻ “phát triển tự do”, tức là đang để rối loạn tự nhiên dẫn dắt con đi xa hơn khỏi thực tại – không phải thiên tài, mà là mất kết nối.

+ Trẻ thiên tài vẫn cần khuôn khổ và rèn luyện cực kỳ nghiêm khắc, không ai phát triển thiên tài bằng cách “muốn gì làm nấy”.

P/s: Từ đó, chuyên gia giúp người bố hiểu: “Yêu con không phải là để con muốn gì làm nấy, mà là cho con thứ con cần kể cả khi nó không dễ dàng.”

Làm việc với đứa trẻ trong sự hiện diện của bố – để bố “nhìn thấy”

+ Thay vì chỉ nói bằng lời, chuyên gia thường mời người bố tham gia quan sát một biểu hiện thay đổi nhỏ khi chuyên gia áp dụng phương pháp giúp con

+ Để họ chứng kiến tận mắt con đang rối loạn như thế nào khi không có ranh giới.

+ Để họ nhìn thấy sự thay đổi tích cực khi con được can thiệp đúng cách.

P/s: Chính trải nghiệm thật này khiến người bố dần “vỡ” ra, và lòng tự tôn làm bố không còn cản trở lòng yêu thương thực tế nữa.

Chữa lành người bố bằng cách cho họ một “vai trò mới”

+ Khi người bố bị buộc phải từ bỏ “giấc mơ thiên tài” của con, họ thường mất phương hướng.

+ Chuyên gia Phạm Hiền giúp họ: Không thấy mình là “người thất bại”. Thay vào đó, trở thành người bạn đồng hành mạnh mẽ và tỉnh táo nhất của con.

+ Chính bố là người dạy con các nguyên tắc, là điểm tựa khi con rối loạn, và là người có thể giúp con phát triển điểm mạnh – nhưng trên nền tảng ổn định.

Không chỉ con được cứu, mà người bố cũng “lành”

+ Người bố đi từ phủ nhận → nhìn nhận → chấp nhận → chủ động đồng hành, sẽ đi kèm với:

+ Một sự trưởng thành và dịu lại bên trong.

+ Một tình yêu thực tế và hiệu quả hơn với con.

+ Một vai trò làm cha không bị mơ hồ, mà vững chãi – dù con có là ai.

P/s: Lời nhắn chuyên gia thường gửi đến người bố: Khi con cần chữa lành, điều đầu tiên con cần không phải là tự do, mà là sự hiện diện của một người cha tỉnh táo.